Thời gian qua, ngành logistics Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh và mạnh với mức tăng trưởng từ 13 - 15%/năm. Logistics được xác định là một ngành dịch vụ quan trọng, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình tham gia và thực thi các hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các đối tác, trong đó có Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (Hiệp định EVFTA) đã mang lại những cơ hội về thu hút đầu tư, gia tăng nhu cầu vận chuyển, tuy nhiên quá trình này cũng đang bộc lộ những thách thức mà ngành logistics Việt Nam phải đối mặt.
Đại diện cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa đã có sự trao đổi, thảo luận cụ thể hơn về những vấn đề này tại Tọa đàm "Giải pháp thúc đẩy ngành logistics tận dụng cơ hội từ EVFTA" do Tạp chí Công Thương tổ chức sáng 22/9/2022.
Cơ hội lớn tham gia chuỗi dịch vụ logistics của EU
Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công Thương, nếu so sánh thì những cam kết của EVFTA liên quan đến logistics có thể có mức độ mở cửa thị trường cao hơn so với WTO và một số hiệp định khác, kể cả CPTPP.
Trong đó, nhóm đầu tiên là nhóm dịch vụ logistics chủ yếu liên quan đến xếp dỡ, lưu kho và các dịch vụ hỗ trợ khác. Nhóm thứ hai là các dịch vụ liên quan logistics, chẳng hạn như vận tải biển, vận tải bộ, vận tải đường không, dịch vụ chuyển phát, phân tích kiểm định kỹ thuật....
"Ví dụ, với dịch vụ xếp dỡ hàng hóa thì trong EVFTA chúng ta có mở thêm dịch vụ xếp dỡ hàng hải. Đây là dịch vụ chúng ta chưa cam kết trong WTO và kể cả trong CPTPP nhưng trong hiệp định này chúng ta cho phép liên doanh không quá 51%. Bên cạnh đó, những dịch vụ chủ yếu như bảo dưỡng và sửa chữa tàu thủy, dịch vụ bốc hàng, gom hàng... là những dịch vụ chúng ta cam kết cho phép liên doanh. Trong vận tải đường biển thì chúng ta có mở cửa với dịch vụ vận tải đường biển nội địa, với hàng không thì mở thêm dịch vụ liên quan đến bảo dưỡng máy bay, dịch vụ cung cấp đồ ăn, còn các dịch vụ liên quan khác cơ bản tương đương cam kết WTO", ông Khanh thông tin.
Với những cam kết đó, theo ông Khanh, có ba thách thức lớn đối với ngành logistics khi thực thi Hiệp định EVFTA.
Thách thức đầu tiên là thách thức từ cạnh tranh, khi mở cửa thì các doanh nghiệp logistics EU sẽ vào, doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh. Hoặc ở những lĩnh vực theo lộ trình đã mở cửa 100% thì lúc này các doanh nghiệp EU không cần đến doanh nghiệp Việt Nam nữa mà thay vào đó họ sẽ tự làm, tức là cơ hội của doanh nghiệp logsitics trong nước tại một số dịch vụ sẽ bị mất đi.
Thách thức thứ hai, theo ông Khanh không chỉ là trong lĩnh vực logistics mà trong nhiều lĩnh vực, đó là doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh lẫn nhau, ví dụ như hiện tượng không chủ động tìm kiếm nguồn hàng mà cạnh tranh để giành nguồn hàng, dìm giá... để giành lấy các cơ hội từ EVFTA mang lại.
Thứ ba, cơ hội có nhưng có tận dụng được hay không, bởi doanh nghiệp logistics của chúng ta vẫn thiếu vốn, công nghệ cũng có hạn và đặc biệt là về nhân lực có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc theo nhu cầu mới hiện nay.
Từ góc độ doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ của ngành logistics, ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng cho biết: Chi phí logistics là một chi phí lớn trong cấu thành giá trị của sản phẩm xuất nhập khẩu, có những thị trường tỷ lệ này chiếm rất lớn. Những giai đoạn khó khăn như năm 2021 chi phí logistics đã tăng hàng chục lần là một điểm rất khó khăn cho các doanh nghiệp cân đối chi phí trong sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa. Bên cạnh đó cần phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe của các đối tác nước ngoài về quy định kho ngoại quan, đóng tàu hàng...
"Thời gian qua chúng ta bị chi phối bởi các hãng tàu nước ngoài, có những lúc khó khăn, đặc biệt là những thời điểm Trung Quốc phong tỏa theo chính sách Zero Covid mà chúng ta không điều động được container rỗng, không chủ động được nguồn tàu, không khống chế được chi phí cao... cho nên đây là một thiệt thòi lớn cho các doanh nghiệp tham gia vận tải và công tác xuất nhập khẩu hàng hóa", ông Nhựt chia sẻ.
Tuy nhiên, hội nhập EVFTA cũng mang lại nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp logistics và ngành logistics nói chung.
Trong đó, theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, điều dễ nhận thấy nhất là những cơ hội mang lại cùng với sự gia tăng thương mại Việt Nam - EU.
EU là một trong những thị trường truyền thống của Việt Nam, sau khi Hiệp định EVFTA được kí kết và thực thi thì khối lượng thương mại hàng hóa trao đổi song phương cũng gia tăng rất nhiều và đặc biệt trong đó có những mặt hàng có khối lượng vận chuyển lớn như hàng dệt may, hàng da giày, thủy sản...
"Để đưa được những mặt hàng này đến được khu vực EU với chi phí hợp lý và giá thành cũng như thời gian bảo đảm có vai trò rất quan trọng của các doanh nghiệp dịch vụ logistics", ông Hải khẳng định.
Đồng quan điểm với ông Hải, ông Ngô Chung Khanh cho rằng, cơ hội đầu tiên là khi trao đổi thương mại gia tăng thì nhu cầu xuất nhập khẩu không chỉ từ phía Việt Nam mà từ phía EU cũng tăng, kéo theo khách hàng của ngành logistics cũng nhiều hơn.
Cơ hội lớn thứ hai là thời gian qua nhiều nhà đầu tư EU trong quá trình trao đổi với Lãnh đạo của Chính phủ, các bộ, ngành thì đều thể hiện mong muốn đầu tư những trung tâm logistics tại Việt Nam.
Khi các doanh nghiệp EU đầu tư trung tâm logistics quốc tế tại Việt Nam sẽ tạo điều kiện kết nối giữa các tỉnh thành, vận chuyển hàng giữa các địa phương cũng thuận lợi hơn và từ những trung tâm đấy sẽ tạo điều kiện lan tỏa, giúp cho các hoạt động dịch vụ logistics thuận lợi hơn, chi phí giảm đi và hoạt động của doanh nghiệp logistics tham gia vào cũng là cơ hội để phát triển.
Thứ ba là chúng ta mở cửa các dịch vụ logistics nhưng chúng ta lại chỉ cho phép liên doanh. Đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp logistics trong nước, nếu doanh nghiệp EU muốn cung cấp thì phải tìm các đối tác là các công ty logistics của Việt Nam để kết nối và hoạt động. Đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp logistics trong nước lập đối tác với các công ty của EU từ đó học kinh nghiệm và gia tăng cơ hội kinh doanh.
Cơ hội thứ tư chính là cơ hội tham gia vào chuỗi dịch vụ của các công ty logistics EU, bởi dù là những công ty lớn mạnh nhưng khi vào hoạt động tại Việt Nam sẽ không thể làm hết tất cả các công việc. Họ sẽ có nhu cầu hợp tác với công ty Việt Nam để thầu phụ và thậm chí có thể yêu cầu công ty Việt Nam tham gia chuỗi giá trị của họ.
Cơ hội khác chính là tạo động lực để các doanh nghiệp logistics Việt Nam có thể liên kết với nhau cùng phát triển, tận dụng cơ hội. Bởi khi nhu cầu gia tăng lớn thì sẽ nảy sinh nhu cầu để các doanh nghiệp Việt Nam kết nối lại với nhau tạo ra khả năng cung cấp dịch vụ đầy đủ hơn.
Mở rộng liên kết và tận dụng cơ hội thị trường
Từ góc độ doanh nghiệp dịch vụ logistics, ông Mai Trần Thuật - Giám đốc phụ trách Supply Chain Solutions, Bee Logistics Group cho biết: Trong nguy có cơ, thời điểm Hiệp định EVFTA có hiệu lực cùng thời điểm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đã tạo rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam, đặc biệt là với xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc thì các doanh nghiệp của EU đầu tư vào Việt Nam nhiều.
"Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp logistics có thêm công ăn việc làm, nhất là trong thời điểm 2 năm dịch Covid vừa qua, các doanh nghiệp về sản xuất, các doanh nghiệp lĩnh vực khác đâu đó có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên các doanh nghiệp logistics lại có nhiều công ăn việc làm cũng như đạt doanh thu lớn", ông Thuật chia sẻ.
Theo ông Thuật, khi thực thi Hiệp định EVFTA, để cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài, những công ty logistics lớn của châu Âu như Maersk hay DHL thì rất khó.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của Bee Logistics Group, ông Thuật cho biết: Bee Logistics Group đã lựa chọn đi trước đón đầu, tạm thời làm đại lý, hợp tác với các hãng lớn để làm thầu phụ lại cho họ, từ đó gia tăng sự hiện diện đối với các doanh nghiệp châu Âu cũng như là gia tăng cơ hội và khối lượng công việc của doanh nghiệp.
Để thích ứng với những sự cạnh tranh trong nội bộ các doanh nghiệp logistics Việt Nam cũng như cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt khi các tập đoàn logistics lớn của EU tăng đầu tư và hoạt động tại thị trường Việt Nam, thực hiện mục tiêu kết nối hợp tác với những công ty lớn của EU hoặc liên kết để làm một phần trong cái chuỗi cung ứng của họ tại thị trường Việt Nam thì Bee Logistics phải chuẩn bị rất nhiều nguồn lực.
Đầu tiên là tập trung nguồn lực tài chính, phát triển cơ sở vật chất, đầu tư các kho hàng, các trạm giao nhận, đội ngũ xe vận tải nhỏ để phục vụ nhu cầu nội địa.
Thứ hai về công nghệ, trong bối cảnh các công nghệ hiện đại của thế giới về Logistics như: vận hành tự động, Automation... đang ngày càng trở nên phổ cập tại Việt Nam, Bee Logistics cũng phải chuẩn bị nguồn lực để học hỏi, kết nối để tiếp cận được và đưa cái vận hành những công nghệ đó nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
Thứ ba về nguồn nhân lực, hoạt động của các công ty Logistics càng mở ra nhiều việc hơn lại càng cần nhiều nguồn nhân lực hơn. "Hiện tại chúng tôi đang tham gia dự án về đào tạo nhân lực logistics do Bộ Công Thương triển khai trong đó có sự kết nối giữa doanh nghiệp và các lớp đào tạo thế hệ kế cận trong ngành Logistics", ông Thuật cho biết.
Đặc biệt, những chia sẻ của đại diện Bee Logistics cho thấy, việc đi trước đón đầu của doanh nghiệp còn thể hiện ở việc không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh ngay tại thị trường Việt Nam mà doanh nghiệp còn nỗ lực vươn tới thị trường các nước Châu Âu.
"Chúng tôi đang tìm những đối tác để hợp tác với họ bên kia và thậm chí là đặt văn phòng đại diện ở châu Âu để thứ nhất là chúng tôi tiếp cận trực tiếp nguồn khách hàng từ bên châu Âu luôn; thứ hai là chúng tôi cũng học tập từ họ khi liên doanh hoặc liên kết với họ để có thể học hỏi về những công nghệ hiện đại, tiên tiến trong vận hành...", ông Thuật chia sẻ.
Với một thị trường quy mô rộng lớn cũng như tốc độ tăng trưởng lên đến 24% như khu vực EU thì là cơ hội hết sức to lớn cho cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp logistics. Tuy nhiên cần giải quyết được những thách thức, khó khăn trước mắt và cả về lâu dài.
Theo ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, để rộng đường hơn, thuận lợi hơn trong việc giảm chi phí logistics cũng như là tìm kiếm đối tác nhiều hơn thì Việt Nam nên phát triển trung tâm logistics tại các cảng lớn để đảm bảo đáp ứng được lượng tàu vào, ra cho phù hợp.
Thứ hai, nên đầu tư các hãng tàu. Nếu chúng ta chủ động được nguồn tàu hàng, đáp ứng yêu cầu các vận đơn... sẽ làm chủ được cuộc chơi này bởi hiện giờ tất cả các hãng tàu lớn đều chủ động tìm kiếm nguồn hàng, cạnh tranh rất lớn, các nguồn đi tàu thông qua Việt Nam đều đã nắm bắt được các cơ hội, nếu như chúng ta không đi kịp thì chúng ta sẽ bị cạnh tranh rất lớn.
Nhấn mạnh về tính liên kết giữa các doanh nghiệp, ông Ngô Chung Khanh cho rằng cần quan tâm phát triển các "sếu đầu đàn" trong logistics. Trên thực tê, ngay cả các doanh nghiệp logistics lớn, nhưng liệu có thể tự tin cung cấp được toàn bộ chuỗi dịch vụ từ A – Z hay không, full service hay không, từ các dịch vụ logistics chủ yếu đến các dịch vụ liên quan hay không hay là chỉ cung cấp một số các dịch vụ cơ bản là thế mạnh của doanh nghiệp, còn các dịch vụ khác thì phải để các doanh nghiệp khác lo? Như vậy vô hình chung chính các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, trong đó có cả những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh...
Theo ông Khanh, nếu tạo ra được các flagship (tạm dịch: doanh nghiệp dẫn dắt), ví dụ như một doanh nghiệp logistics lớn trở thành một flagship thì có nhiều doanh nghiệp khác hợp tác, hỗ trợ; khi đó không phải flagship làm hết mà sẽ có những dịch vụ được các đối tác trong chuỗi liên kết thực hiện và liên kết doanh nghiệp này có thể cung cấp full service (tạm dịch: toàn bộ các dịch vụ), đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
"Nếu tạo ra được các "sếu đầu đàn: trong ngành logistics, sẽ giúp cạnh tranh tốt hơn với chính các doanh nghiệp EU, đồng thời là động lực kéo cả ngành phát triển", ông Ngô Chung Khanh nhận định.
Liên kết doanh nghiệp cũng sẽ góp phần thay đổi tư duy kinh doanh của doanh nghiệp, thay đổi những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh mà nếu tiếp tục thì chính các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đối thủ lấn át thị trường, thị phần của mình.
Tìm ra điểm kích hoạt để tạo hiệu ứng hỗ trợ doanh nghiệp
Theo ông Trần Thanh Hải, việc doanh nghiệp nhận biết được vị trí của mình để có sự phấn đấu vươn lên và vươn ra thị trường nước ngoài thông qua những bước đi hợp lý như liên kết với các doanh nghiệp sở tại của EU hoặc là từng bước từ vai trò đại lý có thể nâng cấp, mở rộng được dịch vụ của mình là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, có thể nói logistics là lĩnh vực có tiềm năng ứng dụng công nghệ hết sức to lớn và đây cũng là một chìa khóa giúp cho doanh nghiệp logistics Việt Nam có thể nâng cao được hiệu quả và tăng sức cạnh tranh.
"Trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp như vậy, sự cạnh tranh mạnh mẽ như vậy, doanh nghiệp nào dựa được vào công nghệ, ứng dụng được công nghệ tốt thì đấy là những doanh nghiệp sẽ có khả năng vượt trội và vươn xa hơn", ông Hải nhấn mạnh.
Cùng với sự chủ động đi trước đón đầu và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, rất cần sự trợ lực đòn bẩy từ cơ chế, chính sách.
Về chính sách hỗ trợ cụ thể đặc thù đối với việc thực thi FTA nói chung, EVFTA nói riêng, ông Ngô Chung Khanh chia sẻ: Bộ Công Thương mà cụ thể là Vụ Chính sách Thương mại Đa biên với vai trò là cơ quan đầu mối theo dõi việc thực thi FTA, dựa trên các tổng hợp ý kiến của các bộ, ngành, địa phương đã kiến nghị lên Chính phủ một trong những vấn đề mấu chốt nhất là chính sách tín dụng dành cho các doanh nghiệp tận dụng FTA, trong đó có EVFTA. Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước có những định hướng để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng thuận lợi hơn trong việc thực hiện các hoạt động liên quan đến thực thi các FTA.
"Trong thời gian tới chúng tôi sẽ tích cực phối hợp đẩy mạnh nội dung này; khi mà Ngân hàng Nhà nước có định hướng rõ ràng và trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại có thể có những phối hợp triển khai thực tế thì đấy là một hỗ trợ rất tốt cho các doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp logistics mà cả các doanh nghiệp ngành, lĩnh vực khác", ông Khanh nhận định.
Ông Trần Thanh Hải chia sẻ thêm, logistics là ngành dịch vụ tổng hợp, liên quan đến nhiều bộ, ngành, do đó cần sự hỗ trợ từ các bộ, ngành và địa phương, hiệp hội.
Ví dụ, ngành ngân hàng có thể hỗ trợ thông qua các "đòn bẩy" về tín dụng để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp hoặc là ngành giao thông đẩy mạnh giải ngân và hoàn thành các dự án đầu tư hạ tầng giúp hỗ trợ rất lớn giảm chi phí trong các khâu vận chuyển, luân chuyển hàng hóa được nhanh chóng hơn. Ngành tài chính hỗ trợ cải cách thủ tục thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa hoặc điện tử hóa được các thủ tục đó cũng là một cách hỗ trợ cho các doanh nghiệp...
Vai trò lớn nhất của Bộ Công Thương, nhất là trong bối cảnh hiện nay phải lựa chọn được những lĩnh vực, nội dung để làm sao tạo ra một điểm kích hoạt, qua đó có thể tạo ra hiệu ứng hỗ trợ doanh nghiệp được tốt nhất.
"Sắp tới Bộ Công Thương sẽ triển khai xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics với tầm vóc dài hạn hơn so với Kế hoạch hành động trước đây nhằm đạt được cơ sở nền móng hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics trong thời gian tới, đồng hành với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thị trường thế giới tốt hơn nữa", ông Hải thông tin.