

Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động nhanh và phức tạp, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng và các tiêu chuẩn mới về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và phát triển bền vững đang tạo áp lực đổi mới mạnh mẽ cho doanh nghiệp Việt Nam. Việc chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng hiện diện toàn cầu của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam là yêu cầu cấp bách và là định hướng chiến lược. Điều này đã được Bộ Chính trị khẳng định tại Nghị quyết số 68-NQ/TW và Chính phủ tại Nghị quyết số 138/NQ-CP, trong đó nhấn mạnh quan điểm phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Công Thương đang chủ trì xây dựng Chương trình "Go Global - Vươn ra thị trường quốc tế giai đoạn 2026 - 2035", hướng tới mục tiêu tạo bệ phóng để doanh nghiệp Việt Nam vững vàng hội nhập, khẳng định vị thế trên thương trường toàn cầu.

Theo dự thảo Chương trình Go Global, mục tiêu trọng tâm là quốc tế hóa khu vực kinh tế tư nhân để hình thành các doanh nghiệp đa quốc gia có thương hiệu và năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu; chuyển dịch từ thương hiệu quốc gia, doanh nghiệp gia công, lắp ráp xuất khẩu sang quốc gia xuất khẩu dựa trên các sản phẩm Make in Vietnam. Hai nguồn lực chiến lược là các doanh nghiệp lớn dẫn đầu (Leading Cooporations) có vai trò dẫn dắt chuỗi giá trị toàn cầu trong các ngành, lĩnh vực chiến lược mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiên phong (SMEs Fioneers) dẫn đầu trong các lĩnh vực, thị trường diện hẹp, có yếu tố đặc thù, có mô hình kinh doanh sáng tạo, có tiềm năng nhân rộng toàn cầu.

Theo lộ trình, giai đoạn 2026 - 2027 là giai đoạn khởi động, tập trung hoàn thiện thể chế, phổ biến nhận thức và thiết lập hạ tầng hỗ trợ doanh nghiệp. Từ 2028 - 2030, chương trình bước vào giai đoạn “vươn ra - chiếm lĩnh”, triển khai các mô hình đầu tư, xúc tiến thị trường và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chỗ đứng ở nước ngoài. Đến 2035, hệ sinh thái Go Global được kỳ vọng hoàn thiện và vận hành hiệu quả, giúp doanh nghiệp Việt hội nhập bền vững, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.


Là nền tảng của các ngành sản xuất chế tạo, công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Sau hơn hai thập kỷ phát triển, nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã trưởng thành, từ sản xuất linh kiện đơn giản đến tham gia vào những công đoạn có giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng.
Theo ông Phạm Hải Phong - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), các doanh nghiệp hội viên của Hiệp hội chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, gồm cơ khí, nhựa - cao su và linh kiện điện - điện tử, phục vụ các ngành ô tô, xe máy, điện tử, thiết bị năng lượng và hàng tiêu dùng công nghiệp. Trong hơn 400 hội viên hiện nay, khoảng 55% là doanh nghiệp cơ khí, gần 30% hoạt động trong lĩnh vực nhựa - cao su, và khoảng 10% sản xuất linh kiện điện - điện tử.



Nhiều doanh nghiệp đã đạt trình độ sản xuất cụm linh kiện phức tạp, lắp ráp bảng mạch PCBA, phát triển hệ thống trạm sạc và dây chuyền tự động hóa, cung cấp sản phẩm cho cả doanh nghiệp FDI lẫn doanh nghiệp Việt Nam đầu cuối.
Những tiến bộ này khẳng định năng lực công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang chuyển mình từ vị thế “vệ tinh sản xuất” sang “đối tác cung ứng giá trị cao”, tạo nền tảng cho mục tiêu vươn ra thị trường quốc tế.

Thực tế, trong chuỗi cung ứng các ngành chế tạo, Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các công đoạn của chuỗi giá trị, song mức độ tham gia giữa các khâu còn chênh lệch.
Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hiện chủ yếu tham gia ở khâu sản xuất linh kiện, phụ tùng - tức là phần giữa của chuỗi giá trị, từ sản xuất linh kiện rời đến sản xuất cụm linh kiện. Muốn “go global”, muốn phát triển thương hiệu, muốn mở rộng ra thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần thiết phải phát triển đến phần lắp ráp cuối cùng.


Theo ông Phạm Hải Phong, để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có thể “go global” đúng nghĩa, cần hình thành các doanh nghiệp dẫn dắt trong chuỗi cung ứng có khả năng mở rộng hoạt động ra nước ngoài, qua đó tạo sức lan tỏa cho cả hệ sinh thái doanh nghiệp.
VASI đã nhiều lần góp ý, đề xuất trong quá trình xây dựng Chương trình Go Global, với mong muốn Bộ Công Thương sẽ phát triển một số doanh nghiệp dẫn dắt. Ví dụ như VinFast, khi họ đầu tư vào Indonesia, xây dựng nhà máy ở Indonesia, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hoàn toàn có thể đi cùng, có thể cung ứng không những chỉ là linh kiện trong xe mà cả những thiết bị, những máy móc phục vụ cho nhà máy hay các thiết bị phục vụ cho việc sản xuất thử nghiệm cũng như bán xe ở trên thị trường”.
- Ông Phạm Hải Phong phân tích -
Đó là những ví dụ rất thực tế, cho thấy doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể “go global” thông qua chuỗi cung ứng, đi cùng với các doanh nghiệp lớn đã có vị thế trên thị trường quốc tế
Bên cạnh đó, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cần chuyển từ tư duy tham gia sang tư duy dẫn dắt chuỗi giá trị. Không thể mãi dừng ở vai trò cung cấp linh kiện cấp hai, cấp ba, doanh nghiệp Việt Nam phải tiến tới tham gia sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh, đầu tư ra nước ngoài và phát triển thương hiệu riêng trong những lĩnh vực thế mạnh như cơ khí chính xác, điện tử hay năng lượng mới.


VASI cũng đề xuất phát triển doanh nghiệp trung gian thương mại (outsourcing intermediaries) - mô hình phổ biến tại Mỹ và châu Âu, kết nối nhà sản xuất Việt Nam với khách hàng quốc tế, đặc biệt ở các thị trường ngách có yêu cầu đặc thù nhưng giá trị cao. Hiện Việt Nam chưa có tổ chức trung gian quy mô lớn đảm nhiệm vai trò này, trong khi đây là cầu nối quan trọng để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận thị trường toàn cầu.


Dù vậy, hành trình “go global” của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Thách thức lớn nhất của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ hiện nay không nằm ở năng lực kỹ thuật, mà ở năng lực tài chính và hành lang pháp lý khi muốn đầu tư ra nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp có năng lực, có đơn hàng, có đối tác, nhưng khi ra nước ngoài đầu tư thì gặp khó vì yêu cầu chứng minh nguồn tiền tích lũy từ hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trong khi đa phần doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ quy mô vừa và nhỏ, vốn lưu động không lớn, đa phần chỉ có thể đầu tư “gối đầu” từ lợi nhuận hiện có, không thể tách riêng một khoản tích lũy lớn cho đầu tư.

Do đó, doanh nghiệp mong có sự xem xét lại về chính sách chứng minh năng lực tài chính, có thể thông qua bảo lãnh của các ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc dùng tài sản hiện có ở trong nước để chứng minh năng lực đầu tư ra nước ngoài.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng rất cần nguồn thông tin thị trường và tư vấn đầu tư chính xác, đặc biệt là dữ liệu về cơ hội M&A, nhu cầu hợp tác của đối tác quốc tế. Đây là mảng mà theo ông Phong, cần sự vào cuộc mạnh hơn của Bộ Công Thương, các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài và các hiệp hội ngành hàng.

Ông Phong nhận định, để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam thực sự “go global”, cần hình thành một hệ sinh thái hỗ trợ đồng bộ, trong đó có sự phối hợp giữa Nhà nước, hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp. Trên cơ sở những sự kiện như Hội chợ Mùa Thu, có thể xây dựng những sự kiện cố định thường niên để hỗ trợ giới thiệu năng lực; tổ chức các chương trình “sourcing tour” cho từng nhóm nhỏ doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, gặp gỡ đối tác, học hỏi kỹ thuật và mô hình hợp tác…
Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm kiếm đợc người mua tiềm năng trực tiếp, cơ hội đầu tư liên doanh phù hợp với năng lực của mình và nhu cầu của đối tác.
Nếu các hoạt động xúc tiến như vậy được triển khai thường xuyên, doanh nghiệp Việt sẽ dần xây dựng được uy tín và thương hiệu, từng bước khẳng định vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu.


Tầm nhìn dài hạn của Chương trình Go Global là đến năm 2035, Việt Nam sẽ hình thành một thế hệ “Vietnam Global Champions” - những doanh nghiệp dẫn đầu trong các ngành chiến lược, có thương hiệu quốc tế, năng lực R&D, làm chủ công nghệ lõi và đội ngũ nhân lực toàn cầu. Trong bức tranh đó, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chính là lực lượng nòng cốt, là “mắt xích” kết nối giữa các ngành từ chế tạo, năng lượng đến công nghệ cao.



Khi doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đủ mạnh để đảm nhiệm các khâu có giá trị cao - từ thiết kế, sản xuất, thử nghiệm đến hậu cần - Việt Nam sẽ không chỉ là “điểm đến của đầu tư”, mà trở thành quốc gia kiến tạo chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu xây dựng nền công nghiệp tự chủ, hiện đại và bền vững, gắn với định hướng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.
Để biến tầm nhìn thành hiện thực, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước - Hiệp hội - Doanh nghiệp. Nhà nước kiến tạo thể chế và hạ tầng; hiệp hội làm cầu nối và xúc tiến; doanh nghiệp chủ động đổi mới công nghệ, đầu tư R&D, xây dựng thương hiệu và sẵn sàng hội nhập.
Khi những mắt xích này được kết nối đồng bộ, hành trình “Go Global” sẽ không chỉ là khẩu hiệu, mà trở thành bước tiến hiện thực phát huy nội lực “Make in Vietnam” của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước trên con đường hội nhập toàn cầu.
