Việc tận dụng quy tắc xuất xứ giúp gia tăng khai thác lợi thế từ Hiệp định EVFTA trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động và nhiều thị trường áp dụng các chính sách thuế quan mới, qua đó duy trì tăng trưởng và phát triển thị trường một cách bền vững cho doanh nghiệp, hàng hóa Việt Nam.
Sau hơn 5 năm thực thi, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã mang lại nhiều kết quả tích cực, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng trưởng mạnh mẽ, với nhiều ngành hàng chủ lực như da giày, nông sản, thủy sản được hưởng lợi.


Trao đổi tại Tọa đàm với chủ đề: “Tận dụng quy tắc xuất xứ trong EVFTA và ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng” do Tạp chí Công Thương thực hiện ngày 09/10/2025, bà Trịnh Thị Thu Hiền - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết: Kể từ 1/8/2020 khi Hiệp định EVFTA bắt đầu có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam sang EU đạt 17,9 tỷ USD và đến hết năm 2024 tăng lên 51,72 tỷ USD.
Tương tự như vậy, kim ngạch được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) tăng từ 2,66 tỷ USD lên mức 18,13 tỷ USD và với con số này thì tương ứng với tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ từ khoảng 14,8% tăng lên mức 35,1%.
"Với con số này thì chúng ta thấy rằng việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA tăng dần và đang có chiều hướng khá tích cực", bà Hiền nhận đinh.
Bên cạnh đó, theo bà Hiền, các mặt hàng khác nhau có tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ khá là khác nhau, tùy thuộc vào tính chất mặt hàng, tùy thuộc vào mức độ đáp ứng quy tắc xuất xứ của từng mặt hàng đi thị trường EU.

Ở góc độ ngành hàng cụ thể, bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam cho biết: Việc thực thi Hiệp định EVFTA trong thời gian qua tạo lợi thế lớn cho các sản phẩm giày dép chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang EU. Thị trường EU hiện chiếm khoảng từ 24 - 26% trong tổng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành Da giày.
Riêng đối với vấn đề đáp ứng quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với mặt hàng da giày, bà Xuân cho biết khá thuận lợi khi yêu cầu chỉ cần đạt khoảng 40% giá trị gia tăng tại Việt Nam. Gần như tất cả các lô hàng sản phẩm da giày xuất khẩu đều tận dụng được quy tắc xuất xứ theo EVFTA.
Việc tận dụng tốt lợi thế của EVFTA, cộng thêm lượng khách hàng truyền thống của ngành da giày đã được duy trì từ trước giúp tăng trưởng xuất khẩu sang EU rất tốt trong thời gian qua, bù đắp cho sự sụt giảm ở các thị trường khác, kể cả trong giai đoạn bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.

Tuy vậy, nhìn tổng thể, việc thực thi EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức. Trong đó phải kể đến việc tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan chưa đạt như kỳ vọng do nhiều mặt hàng chưa đáp ứng được quy tắc xuất xứ trong Hiệp định, nhiều doanh nghiệp chưa thực sự chủ động được chuỗi cung ứng nguyên liệu - sản xuất.

Bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay diễn biến rất phức tạp, nhiều nước ban hành các chính sách thương mại mới, trong đó có chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ dự báo sẽ tác động tới dòng chảy xuất nhập khẩu. Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết FTA với nhiều đối tác khác, có thể làm tăng áp lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam. Điều này đặt ra yêu cầu cần gia tăng đáp ứng quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA và khai thác tối đa thị trường EU để giảm những tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ và biến động thương mại.
Ông Đỗ Ngọc Hưng - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết: Tương tự Liên minh châu Âu (EU), các Hiệp định thương mại tự do FTA mà Hoa Kỳ ký kết với các đối tác luôn đặt trọng tâm rất lớn về quy tắc xuất xứ. Quy tắc xuất xứ không chỉ là rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại mà còn là "tấm vé thông hành" để cho doanh nghiệp chứng minh tính minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực chuỗi cung ứng toàn cầu.

Cập nhật về vấn đề chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ, ông Đỗ Ngọc Hưng cho hay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã, đang tiến hành các phiên đàm phán về thương mại đối ứng với Hoa Kỳ nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Chính sách thuế đối ứng đang là công cụ trọng tâm trong chính sách thương mại mới có tính lâu dài của Hoa Kỳ. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có phản ứng chính sách vừa kịp thời vừa tổng thể trong đàm phán song phương, vừa tăng cường khai thác các FTA hiện có và khai thác các thị trường mới nổi, các thị trường tiềm năng để giữ vững thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm đầu ra của Việt Nam.
Bà Phan Thị Thanh Xuân cho biết: Tác động ban đầu của thuế đối ứng của Hoa Kỳ đối với lợi thế cạnh tranh của ngành Da giày không đến mức quá báo động, nhưng ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của thị trường và sức mua có sự suy giảm. Bên cạnh đó, mức thuế đối ứng với mặt hàng giày dép tạo thách thức cho các doanh nghiệp cần kiện toàn lại, tăng nội lực để tránh việc tăng giá sản phẩm quá cao làm giảm lợi thế, bởi vì hiện nay giá vật tư cũng như giá nhân công đang ngày càng tăng và khan hiếm về mặt lao động cũng là một thách thức rất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những giải pháp để bù đắp lại.
Để thích ứng với chính sách thương mại mới của nhiều thị trường, trong đó nổi bật là chính sách thuế đối ứng tại Hoa Kỳ - một thị trường lớn của hàng hóa Việt Nam, các diễn giả thống nhất rằng, doanh nghiệp cần có sự chủ động đa dạng hóa thị trường, tăng cường khai thác ưu đãi của các thị trường có FTA, đặc biệt cần tuân thủ quy tắc xuất xứ.
Ông Ngô Minh Phương - Giám đốc điều hành Công ty TNHH Việt Trường cho biết, việc thực thi EVFTA thời gian qua giúp kim ngạch xuất khẩu của ngành nói chung, của Công ty TNHH Việt Trường nói riêng tại thị trường EU tăng lên khoảng 200%, những sản phẩm chủ lực của công ty có kim ngạch tăng rất tốt. Công ty tiếp tục chú trọng đảm bảo thu mua, truy xuất đáp ứng theo đúng tiêu chuẩn để có chứng nhận xuất xứ, đủ tiêu chuẩn xuất hàng đến châu Âu, tạo uy tín với khách hàng, qua đó duy trì tăng trưởng tại thị trường EU. Đồng thời phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng sâu hơn nữa để tận dụng tối ưu ưu đãi của EVFTA, tăng sức cạnh tranh so với những nguồn cung thủy sản khác như: Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc... Ngoài ra, Công ty còn tập trung phát triển chiến lược xanh, đáp ứng chứng chỉ carbon… để đáp ứng xu thế, yêu cầu mới của các thị trường hiện nay.

Tương tự, bà Phan Thị Thanh Xuân cho rằng, các doanh nghiệp trước tiên phải nâng cao nội lực để tận dụng thành công các FTA bởi các thị trường FTA có rất nhiều các điều kiện, nếu như chúng ta không tuân thủ không thể xuất khẩu thành công. Riêng tại thị trường EU là một thị trường lớn, trọng điểm của nhiều mặt hàng Việt Nam, cần khẩn trương tận dụng lợi thế của EVFTA bởi các nước khác cũng đang đẩy nhanh đàm phán FTA với EU, điều này sẽ khiến lợi thế của chúng ta có thể nhanh chóng mất đi.
Ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước, bà Trịnh Thị Thu Hiền cho biết: Để nâng cao tỷ lệ sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ ưu đãi, gia tăng khai thác các thị trường có FTA, trong đó có EVFTA, Bộ Công Thương (Cục Xuất nhập khẩu) đã, đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Cụ thể, xây dựng cơ chế, chính sách để tạo hành lang minh bạch về xuất xứ hàng hóa, chú trọng quy định liên quan đến biện pháp phòng, chống gian lận xuất xứ. Hướng dẫn các địa phương cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho đúng, đảm bảo hàng hóa có xuất xứ, xuất khẩu đi các thị trường FTA. Tăng cường tập huấn và đào tạo mang tính cầm tay chỉ việc đến từng doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về đáp ứng các quy tắc xuất xứ trong các FTA, các cam kết quốc tế. Phối hợp với cơ quan hải quan của nước nhập khẩu để đảm bảo đúng hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi thuế quan; có những biện pháp xử lý phù hợp với hàng hóa có vi phạm liên quan đến xuất xứ. Tham vấn về quy trình sản xuất đối với các mặt hàng trong quá trình đàm phán các FTA hoặc có những cam kết quốc tế với các nước đối tác. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính, giải đáp vướng mắc của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về quy tắc xuất xứ, cấp C/O...

Bài: Thanh Tú
Ảnh: Maika Lê
Thiết kế: Duy Kiên