[eMagazine] Việt Nam - Nhật Bản thúc đẩy hợp tác kiến tạo chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ
09/12/2025 lúc 10:05 (GMT)

[eMagazine] Việt Nam - Nhật Bản thúc đẩy hợp tác kiến tạo chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ

 

công nghiệp
công nghiệp hỗ trợ

Theo ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), hiện nay Việt Nam có khoảng 5.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, trong đó có 1.700 doanh nghiệp FDI, chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Điều này phản ánh rõ mức độ quan tâm và vai trò của Việt Nam ngày càng gia tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. 

công nghiệp hỗ trợ

Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại chỉ ra, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều lĩnh vực vẫn còn khiêm tốn: dệt may - da giày đạt khoảng 45 - 50%, cơ khí chế tạo 15 - 20%, lắp ráp ô tô từ 15 - 20%. Khoảng hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam đang mới chỉ mới đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng cho sản xuất trong nước. 

Gần 88% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu, thiếu tiêu chuẩn chất lượng, chỉ khoảng 10% doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa và dưới 20% đạt chứng nhận ISO hoặc áp dụng các mô hình quản trị hiện đại như 5S, Lean, TQM. Hệ quả là phần lớn doanh nghiệp nội địa mới chỉ tham gia ở các công đoạn gia công cấp thấp, khó tiếp cận đơn hàng quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ các tập đoàn đầu chuỗi.

Thực tế trên cho thấy, tính đến ngày 15/11/2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt 801 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 410,28 tỷ USD, nhập khẩu 390,74 tỷ USD, xuất siêu 19,54 tỷ USD. Trong đó các ngành hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch tăng như: máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 30,01 tỷ USD, tương ứng tăng 48,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 5,33 tỷ USD, tương ứng tăng 11,7%; so với cùng kỳ năm 2024.

công nghiệp hỗ trợ

Ở chiều ngược lại, cơ cấu nhập khẩu cho thấy nhu cầu rất lớn về linh kiện, bán thành phẩm và thiết bị phục vụ sản xuất, trong đó riêng nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 6,62 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 2,59 tỷ USD.

Những con số này cho thấy dư địa phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn còn rất lớn, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về nâng cao năng lực sản xuất, tiêu chuẩn sản phẩm, kỹ năng quản trị và liên kết hợp tác sản xuất theo chuỗi của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI. 

công nghiệp
công nghiệp hỗ trợ

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), đến tháng 6/2025, Việt Nam đã thu hút được vốn đầu tư từ 151 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng 43.702 dự án còn hiệu lực và vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 519,54 tỷ USD. Trong đó, Nhật Bản hiện là nhà đầu tư lớn thứ ba của Việt Nam với 5.603 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt 79,47 tỷ USD. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước tiếp tục được củng cố trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong đầu tư, thương mại, hạ tầng, công nghiệp chế biến, chế tạo và chuyển đổi số. 

“Sự gắn kết chặt chẽ giữa cộng đồng doanh nghiệp hai nước đã và đang đóng góp tích cực vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và nâng tầm chuối giá trị trong khu vực. Trong đó, Nhật Bản tiếp tục là một trong những nhà đầu tư chiến lược, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các ngành công nghiệp trọng điểm, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”, ông Phạm Thanh Bình - Giám đốc Trung tâm xúc tiến, thông tin và hỗ trợ đầu tư phía Bắc, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho biết.

doanh nghiệp FDI

Các khảo sát của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy rõ mức độ kỳ vọng của doanh nghiệp Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam. Năm 2024, có 64,1% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam kỳ vọng có lãi, tỷ lệ này trong ngành chế tạo lên tới 70,2%. Về triển vọng, 48,8% doanh nghiệp dự báo hoạt động kinh doanh năm 2024 sẽ cải thiện so với 2023; và có tới 50,4% doanh nghiệp kỳ vọng lợi nhuận năm 2025 sẽ tiếp tục tăng.

Đáng chú ý, 56,1% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng kinh doanh trong 1 - 2 năm tới, tỷ lệ cao nhất trong ASEAN. Nhiều doanh nghiệp dự kiến mở rộng chức năng bán hàng và sản xuất, tận dụng cả nhu cầu nội địa lẫn xuất khẩu. Từ năm 2019 đến nay, trong 176 trường hợp dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang ASEAN, có tới 90 trường hợp chọn Việt Nam, chủ yếu do rủi ro gia tăng từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và lợi thế ổn định, chi phí cạnh tranh của Việt Nam.

Tuy nhiên, phía sau những con số tích cực này vẫn tồn tại “nút thắt” lớn: chất lượng và năng lực công nghiệp hỗ trợ nội địa. Theo khảo sát của JETRO, tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (bao gồm cả nhà cung cấp Nhật và Việt) đạt khoảng 36,6%; song nếu tách riêng doanh nghiệp Việt Nam, tỷ lệ cung ứng chỉ khoảng 15,7%, giảm 1,5 điểm so với năm trước. Theo lãnh đạo JETRO, con số này còn rất nhỏ, thấp và được duy trì ổn định trong suốt 10 năm qua.  

công nghiệp

Ông Haruhiko Ozasa - Trưởng đại diện JETRO tại Việt Nam cho biết, lý do phổ biến nhất khiến tỷ lệ nội địa hóa chưa cao là chất lượng và năng lực kỹ thuật của nhà cung cấp nội địa chưa đáp ứng yêu cầu (chiếm khoảng 60,9%). Bên cạnh đó là thiếu nhà cung cấp nguyên liệu thô, quy mô doanh nghiệp nhỏ, khó tiếp cận vốn và công nghệ, thiếu nhân lực chất lượng cao và khả năng quản trị theo chuẩn chuỗi cung ứng.

Ở chiều ngược lại, nhu cầu tăng mua sắm nội địa của doanh nghiệp Nhật lại rất lớn. Có tới 50,9% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam dự định tăng cường thu mua tại chỗ, tỷ lệ cao nhất trong ASEAN. Điều đó cho thấy “dư địa hợp tác” trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ giữa hai nước còn rất rộng mở.

công nghiệp hỗ trợ

Nhận thức rõ vai trò nền tảng của công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi. Theo Luật Đầu tư 2020, Nghị định 31/2021/NĐ-CP và các văn bản liên quan, công nghiệp hỗ trợ thuộc nhóm ngành nghề được ưu đãi đầu tư với các chính sách vượt trội về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, tiền thuê đất, tiếp cận tín dụng ưu đãi…

công nghiệp hỗ trợ

Cùng với đó là Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ theo Quyết định 68/QĐ-TTg; Nghị quyết 115/NQ-CP năm 2020 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ; cùng với các nghị quyết mang tính chiến lược của Bộ Chính trị như Nghị quyết 57, 59, 66 và 68, tạo khung chính sách tổng thể để nâng cao năng lực sản xuất quốc gia, củng cố nền tảng công nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đặc biệt, Nghị định 205/2025/NĐ-CP mới được ban hành tháng 7/2025 về phát triển công nghiệp hỗ trợ và nâng cao năng lực doanh nghiệp sản xuất trong nước được xem là bước tiến mới, nhấn mạnh yêu cầu hình thành hệ sinh thái sản xuất hoàn chỉnh, tăng tỷ lệ nội địa hóa, thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Nghị định 205 cũng bổ sung các cơ chế hỗ trợ trực tiếp hơn cho doanh nghiệp, từ tư vấn cải tiến, đào tạo nhân lực kỹ thuật, đến hỗ trợ đổi mới công nghệ, chứng nhận chất lượng và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế.

xúc tiến thương mại
xúc tiến thương mại
xúc tiến thương mại

Về xúc tiến đầu tư và thương mại, Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) phối hợp chặt chẽ với Cục Công nghiệp, Cục Đầu tư nước ngoài, JETRO, KOTRA và hệ thống gần 60 Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để triển khai các hoạt động kết nối chuyên sâu. Riêng với Nhật Bản, hai bên thường xuyên tổ chức các triển lãm chuyên ngành công nghiệp hỗ trợ, tiêu biểu như Triển lãm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản (SIE 2025) tại Hà Nội, các chương trình kết nối doanh nghiệp (B2B), công bố “Danh sách các công ty cung ứng xuất sắc của Việt Nam” để các nhà mua hàng Nhật Bản tham khảo.

doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
công nghiệp hỗ trợ

Trên thực tế, nhiều mô hình hợp tác công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản đã và đang cho thấy hiệu ứng lan tỏa tích cực.

Tại Hà Nội, Tổ hợp Techno Park Việt Nam - Nhật Bản tại Khu công nghiệp hỗ trợ phía Nam Hà Nội (HANSSIP) là một ví dụ điển hình. Giai đoạn 1 của Tổ hợp đã đi vào hoạt động với chuỗi nhà máy của doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản. 

Tổ hợp Techno Park Việt Nam - Nhật Bản
Tổ hợp Techno Park Việt Nam - Nhật Bản

Nhà máy đầu tiên do Công ty TNHH Onaga (Nhật Bản) đầu tư hiện sản xuất thử nghiệm linh kiện hàng không vũ trụ, tàu cao tốc, máy bán dẫn, robot, máy xây dựng và máy nông nghiệp công nghệ cao, với sự đồng hành của Tập đoàn Boeing (Hoa Kỳ).

Ông Onaga Masaru - Chủ tịch Công ty TNHH Onaga khẳng định, mục tiêu của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở sản xuất linh kiện tại Việt Nam mà còn xuất khẩu ra thị trường quốc tế, đồng thời hỗ trợ chuyển giao công nghệ, kỹ năng sản xuất và đào tạo nhân lực kỹ thuật cao cho phía Việt Nam.

“Thị trường hàng không Việt Nam tăng trưởng trên 10% mỗi năm, mở ra cơ hội lớn cho sản xuất thiết bị máy bay. Chúng tôi sẽ mở rộng hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, giúp họ tiếp cận công nghệ, đào tạo kỹ thuật và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu”, ông Onaga chia sẻ.

Ông Nguyễn Hoàng - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội nhận định, việc thúc đẩy hợp tác với các doanh nghiệp đến từ Nhật Bản giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ, quy trình và chứng chỉ sản xuất toàn cầu; đồng thời mở rộng cơ hội đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và kết nối thị trường. Ông bày tỏ tin tưởng rằng sự hợp tác hiệu quả giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam và Nhật Bản là minh chứng cho chủ trương hợp tác công nghiệp hóa hai nước trong khuôn khổ Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản. Thời gian tới, hai bên sẽ triển khai Giai đoạn 2 của Techno Park tại HANSSIP, đồng thời mở rộng mô hình này ra ba miền Bắc - Trung - Nam.

Phối cảnh KCN HANSSIP
Phối cảnh Khu công nghiệp HANSSIP.

Tại phía Nam, Đồng Nai đang nổi lên như một “điểm đến chiến lược” của doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Tổ Điều phối viên xúc tiến phát triển công nghiệp hỗ trợ tỉnh Đồng Nai thành lập từ năm 2019 theo mô hình Nhật Bản, đóng vai trò “nhịp cầu” giữa doanh nghiệp Nhật với doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trong tỉnh.

Tổ thường xuyên tổ chức khảo sát, làm việc trực tiếp với cả doanh nghiệp Việt Nam (như Thịnh Phát, Vietlabel…) và doanh nghiệp Nhật (như Takashima Metal Precision). Qua đó, vừa giúp doanh nghiệp Việt nhìn rõ những tiêu chí cần nâng cấp để đạt chuẩn Nhật, vừa hỗ trợ doanh nghiệp Nhật tìm được nhà cung ứng phù hợp, tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm chi phí logistics.

Từ đầu năm 2025 đến nay, Tổ đã làm việc với hơn 30 doanh nghiệp Việt - Nhật tại Đồng Nai và vùng lân cận, qua đó hình thành nhiều mô hình hợp tác như “cung ứng - chuyển giao công nghệ - mua lại sản phẩm”. Doanh nghiệp Việt Nam được hỗ trợ nâng cấp quy trình theo tiêu chuẩn Nhật Bản, trong khi doanh nghiệp Nhật Bản được cung cấp thông tin minh bạch, giới thiệu đối tác phù hợp và tháo gỡ vướng mắc khi đầu tư.

Khu nhà xưởng Nhật Bản, KCN Nhơn Trạch III – Giai đoạn 2, thị trấn Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
Khu nhà xưởng Nhật Bản, KCN Nhơn Trạch III - Giai đoạn 2, tại tỉnh Đồng Nai

Những đánh giá tích cực từ Cục Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp vùng Kansai (METI-Kansai) cho thấy mô hình Đồng Nai đang đi đúng hướng: kết hợp hài hòa giữa năng lực doanh nghiệp Việt, nhu cầu doanh nghiệp Nhật và vai trò điều phối của chính quyền địa phương. Đây là kinh nghiệm có thể nhân rộng sang các địa phương khác nếu Việt Nam muốn xây dựng mạng lưới “cụm liên kết” Việt - Nhật trong công nghiệp hỗ trợ.

công nghiệp hỗ trợ

Nhận định khâu yếu nhất của doanh nghiệp Việt không phải là năng lực sản xuất thuần túy, mà chính là “hạ tầng mềm” - khung quản trị, tiêu chuẩn kỹ thuật và hệ thống đảm bảo chất lượng, các chuyên gia cho rằng cần có sự đầu tư bài bản hơn vào quản trị, tiêu chuẩn hóa và chuyển đổi số, đặc biệt là năng lực quản trị, tiêu chuẩn chất lượng và khả năng đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng quốc tế.

công nghiệp hỗ trợ
công nghiệp hỗ trợ

Thứ nhất, về năng lực kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần đầu tư bài bản hơn vào công nghệ, thiết bị, kiểm soát chất lượng, tiêu chuẩn hóa quy trình. Chuẩn chất lượng không chỉ dừng ở ISO, mà còn là khả năng duy trì chất lượng ổn định, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu kiểm tra 100% như nhiều doanh nghiệp Nhật đang áp dụng.

Thứ hai, về quản trị, doanh nghiệp cần chuyển đổi sang các mô hình quản trị hiện đại: áp dụng 5S, Kaizen, Lean, TQM, chuyển đổi số trong quản lý sản xuất, sử dụng dữ liệu thời gian thực (IoT, AI) để tối ưu quy trình, giảm lỗi, tăng năng suất. Nhật Bản đang kỳ vọng mạnh mẽ vào năng lực công nghệ thông tin và chuyển đổi số của Việt Nam, với khoảng 50.000 kỹ sư công nghệ thông tin được đào tạo mỗi năm. Việc kết hợp thế mạnh này với sản xuất chế tạo sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh mới cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.

Thứ ba, về kết nối, doanh nghiệp Việt cần chủ động hơn trong việc tham gia các triển lãm chuyên ngành, chương trình kết nối do JETRO, VIETRADE, các địa phương và hiệp hội tổ chức. Thay vì “chờ được gọi tên”, doanh nghiệp cần chuẩn bị hồ sơ năng lực rõ ràng, minh bạch, thể hiện rõ những gì mình có thể làm và kế hoạch nâng cấp trong tương lai.

hợp tác
hợp tác

Về phía cơ quan quản lý, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư: đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp phép, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng tính minh bạch trong thực thi. Một môi trường dự báo được về chi phí và thời gian sẽ là yếu tố then chốt để doanh nghiệp Nhật Bản mở rộng đầu tư và nâng cấp dây chuyền tại Việt Nam, qua đó kéo theo nhu cầu mua sắm nội địa lớn hơn.

Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc do biến động địa chính trị, chiến tranh thương mại, xu hướng “khu vực hóa” sản xuất và các yêu cầu mới về phát triển xanh, tiết kiệm chi phí, giảm rủi ro, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đang tìm kiếm những mắt xích đối tác tin cậy.

công nghiệp hỗ trợ
công nghiệp hỗ trợ

Với vị thế ngày càng rõ nét trong chuỗi cung ứng, môi trường chính trị - xã hội ổn định, lực lượng lao động trẻ và khung chính sách ưu đãi dành cho công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam có cơ hội rất lớn để đón làn sóng đầu tư mới từ Nhật Bản. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Nhật Bản với công nghệ, kinh nghiệm quản trị và mạng lưới khách hàng toàn cầu chính là “bệ phóng” để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trưởng thành, bước lên những nấc thang giá trị cao hơn.

Nếu tận dụng tốt giai đoạn “vàng” này, Việt Nam - Nhật Bản không chỉ thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng sâu, rộng và bền vững, mà còn cùng nhau kiến tạo một chuỗi giá trị khu vực có sức cạnh tranh cao, an toàn và linh hoạt hơn trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới.

Nội dung: Thy Thảo

Trình bày: Hạ Vĩ


Trang chủ

Bài mới

Xem nhiều

Multimedia

Tạp chí