
Bối cảnh mới đặt ra vấn đề cấp thiết cần phải nâng cao năng lực sản xuất, tăng nội địa hóa và phát triển công nghiệp hỗ trợ trong các ngành sản xuất, dịch vụ chiến lược của Việt Nam, mà bản chất của việc đó chính là tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất, dịch vụ chiến lược để nâng cao giá trị gia tăng để lại trong nước nhiều hơn, hỗ trợ cho khu vực kinh tế trong nước phát triển, đồng thời nâng cấp chất lượng sản phẩm, giúp hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nghiên cứu “Nâng cao năng lực sản xuất và phát triển công nghiệp phụ trợ trong chuỗi giá trị toàn cầu - Thực trạng, thách thức và giải pháp cho giai đoạn 2026-2030” của TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV chỉ ra, chuỗi giá trị toàn cầu đã và đang có nhiều thay đổi thông qua việc chia nhỏ chuỗi giá trị thành nhiều công đoạn giá trị gia tăng khác nhau (thiết kế, R&D, mua sắm nguyên vật liệu (NVL), sản xuất linh kiện, gia công - lắp ráp, phân phối…) được thúc đẩy bởi dòng vốn FDI toàn cầu để triển khai ở những nơi phù hợp trên thế giới; theo đó mở ra nhiều cơ hội cho các nước đi sau tham gia, nâng cấp nền công nghiệp của mình và hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững.
Việt Nam, dù là nước đi sau và hội nhập chậm hơn, cũng đã nhanh chóng tận dụng lợi thế của mình (về lao động, tài nguyên, vị trí địa lý…), cùng với những cải cách hợp lý (thu hút FDI, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh…) để dần trở thành một mắt xích quan trọng của chuỗi giá trị toàn cầu trong nhiều ngành công nghiệp chiến lược như điện tử, điện máy, cơ khí chế tạo, dệt may - da giầy…v.v.
Tuy nhiên, nền sản xuất của Việt Nam hiện vẫn còn nằm trong cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu với hầu hết các ngành công nghiệp, giá trị gia tăng còn thấp, cạnh tranh cao, thâm dụng lao động giá rẻ, trong khi tài nguyên sử dụng chưa hợp lý, chưa hiệu quả, dẫn đến những rủi ro về ô nhiễm môi trường và phát triển thiếu bền vững. Trong khi đó, trên thị trường quốc tế, đặc biệt là trong các FTA và khung khổ hợp tác song phương, đa phương khác mà Việt Nam tham gia, tỷ lệ nội địa hóa là tiêu chí trọng tâm để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Bối cảnh này đặt ra vấn đề cấp thiết cần phải nâng cao năng lực sản xuất, tăng nội địa hóa và phát triển công nghiệp hỗ trợ trong các ngành sản xuất, dịch vụ chiến lược của Việt Nam. Bản chất của việc đó chính là tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất, dịch vụ chiến lược để nâng cao giá trị gia tăng để lại trong nước nhiều hơn, hỗ trợ cho khu vực kinh tế trong nước phát triển (thay vì phụ thuộc phần lớn vào doanh nghiệp FDI), đồng thời nâng cấp chất lượng sản phẩm, giúp hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn trên thị trường trong nước và quốc tế.
Theo nhóm nghiên cứu, tại Việt Nam, khái niệm về công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ nhìn chung xuất hiện khá muộn, song đến nay, các chính sách, định hướng về phát triển công nghiệp tại Việt Nam đã tương đối đầy đủ, cập nhật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam.
Cùng với sự phát triển công nghiệp, các chính sách của Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thời gian qua đã đạt được kết quả nhất định. Theo đó, số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã gia tăng, đặc biệt trong chuỗi cung ứng cho các ngành sản xuất chủ lực, như dệt may, da giày, điện tử và công nghiệp chế biến nông sản.
Hiện nay, cả nước khoảng 5.000 doanh nghiệp chế biến tham gia cung cấp linh kiện phụ tùng cho các ngành ô tô và cơ khí; theo đó, có khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã tham gia chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, mà còn có thể xuất khẩu. Đặc biệt, một số tập đoàn lớn, như Viettel, Vingroup, Hòa Phát, Vinamilk, Gemadept…v.v. đã phát triển mạnh mẽ, trở thành “đầu tàu” dẫn dắt trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo và dịch vụ cảng biển… giúp Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất - dịch vụ toàn cầu.
Mặc dù vậy, hiện trạng phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt trên các khía cạnh: (i) Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất chiến lược; (ii) Hàm lượng giá trị gia tăng (GTGT) nội địa trong xuất khẩu; (iii) Đóng góp của khu vực trong nước trong xuất khẩu; (iv) Mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ nhất, tỷ lệ nội địa hóa một số sản phẩm chủ lực vẫn còn thấp, sự tham gia của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, nhiều lĩnh vực công nghệ cao còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hóa chung của Việt Nam năm 2024 đạt 36,6%, ở mức trung bình - thấp trong khu vực.
Thứ hai, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu ở mức thấp so với các nước trong khu vực, trên thế giới. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của các ngành sản xuất chiến lược Việt Nam nhìn chung ở mặt bằng khá thấp so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn đóng góp khá hạn chế trong xuất khẩu, đặc biệt trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Đặc biệt, tỷ lệ này là rất thấp đối với 2 ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là: Sản phẩm điện tử và linh kiện, máy vi tính, và điện thoại; Máy móc thiết bị phụ tùng.
Thứ tư, mức độ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam dù đã được nâng cao nhưng sự hội nhập vào chuỗi vẫn còn hạn chế. Liên kết với các chuỗi giá trị toàn cầu chỉ tập trung ở một số ít các doanh nghiệp lớn, trong khi các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam chưa đủ quy mô và khả năng tiếp cận công nghệ cũng như lao động có kỹ năng để tuân thủ các yêu cầu chặt chẽ về chất lượng và độ kịp thời, theo đòi hỏi của các chuỗi giá trị toàn cầu.
Để giải quyết những thách thức này, TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV cho rằng Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược, trong đó có công nghiệp hỗ trợ nhằm từng bước nâng cao vai trò và giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu ngay trong giai đoạn 2026-2030 và tiếp theo.
Một là, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách của Nhà nước về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam. Cần có Chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026 - 2030 và tiếp theo, tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ KHCN, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, triển khai hiệu quả các chính sách, nghị định đã ban hành; đẩy mạnh chương trình “Make in Vietnam”.
Hai là, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước và liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI thông qua điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong bối cảnh mới, ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam; cân nhắc áp dụng các chính sách mới liên quan đến ưu đãi thuế, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI…
Ba là, tập trung phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bao gồm việc nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, gắn kết với nhu cầu của doanh nghiệp; đào tạo chuyên gia trong ngành công nghệ cao; chính sách giữ chân nhân lực chất lượng cao.
Bốn là, nghiên cứu các chính sách hỗ trợ về tài chính - đầu tư: Thành lập, vận hành hiệu quả Quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ; Khuyến khích đầu tư trong nước, có phương án hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp nội địa đầu tư sản xuất linh kiện, nhất là trong lĩnh vực sản xuất ô tô, điện tử, năng lượng sạch…
Năm là, hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa thông qua việc triển khai hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng và nguồn nhân lực cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và doanh nghiệp.
Sáu là, thúc đẩy nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp gắn liền với chuyển đổi xanh và bền vững, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư vào công nghiệp sạch và sản xuất thân thiện với môi trường…