Cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và trở thành một trong những ngành then chốt của nền kinh tế. Theo đó, ngày 15/3/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với quan điểm cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, gắn kết sản xuất cơ khí với dịch vụ, thương mại, phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chủ động tham gia sâu vào chuỗi giá trị, sản xuất công nghiệp thế giới. Kiến tạo thị trường cho doanh nghiệp cơ khí và tự động hoá, từ đó thúc đẩy năng lực nội tại của doanh nghiệp, cải thiện vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thời gian qua, ngành cơ khí Việt Nam đã phát triển với nhiều chuyển biến tích cực, từng bước làm chủ công nghệ, mở rộng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và tỷ lệ nội địa hoá và phát triển thị trường. Tuy nhiên, dù dư địa của ngành là rất lớn, song việc đa dạng và mở rộng thị trường đối với các doanh nghiệp trong ngành cơ khí vẫn hết sức khó khăn do vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài do năng lực cạnh tranh chưa đủ mạnh, chưa xây dựng được thương hiệu và được nhiều khách hàng tiềm năng biết đến.
Theo nhận định của các chuyên gia, từ nay đến năm 2030, nhu cầu thị trường cơ khí khoảng 310 tỷ USD, riêng nhu cầu thị trường ôtô là 120 tỷ USD nhưng hiện Việt Nam mới đáp ứng 1/3. Cơ hội để chúng ta tiếp cận thị trường thế giới cũng rất lớn. Nếu tạo ra giá thành, thị trường ổn định… thì cơ khí Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Chia sẻ tại Toạ đàm “Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí” do Tạp chí Công Thương tổ chức, TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho biết, những năm qua, với việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển của doanh nghiệp gắn với chiến lược, quy hoạch phát triển của các ngành kinh tế, cùng với sự cố gắng của nội tại các doanh nghiệp trong việc thiết kế, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo thì thị trường cơ khí trong nước đã có những chuyển biến rất tốt về cả lượng và chất.
Đơn cử, trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, từ trước đến nay, các dây chuyền lắp ráp ô tô, xe máy hầu hết là do các đơn vị nước ngoài đảm nhận, ví dụ những đơn vị như Honda, Toyota, Huyndai,.. nước ngoài đảm nhận. Bắt đầu từ năm 2012, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã cử một đoàn kỹ sư đi học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các đơn vị của Nhật, Hàn Quốc và đến thời điểm này thì chúng tôi đã tự chủ trong việc thiết kế, chế tạo các dây chuyền lắp ráp ô tô. Điển hình vừa rồi chúng tôi cũng đã thành công trong việc ứng dụng dây chuyền để sản xuất, lắp ráp ô tô của Vinfast và các dây chuyền lắp ráp đã đưa vào vận hành góp phần cho ra đời một số dòng xe như VF7, VF8, VF3,...
TS. Phan Đăng Phong cho rằng đây là một thành công và thể hiện được rằng người Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được những công việc khó mà từ trước tới nay là đặc quyền của các nhà thầu nước ngoài.
Hay trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng mới thì chúng tôi cũng đã thành công trong việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ thực hiện hệ thống phao nổi và neo cho các dự án điện mặt trời.
Dự án đầu tiên mà chúng tôi ứng dụng là dự án điện mặt trời Đa Mi với công suất là 47,5 MW. Đó là dự án đầu tiên mà Việt Nam thực hiện. Sau đó, chúng tôi tiếp tục ứng dụng ở dự án Tầm Bó và Gia Hoét.
Hoặc là trong lĩnh vực các nhà máy tự động hóa quá trình sản xuất, vừa rồi, chúng tôi cũng ứng dụng cải tiến và lắp ráp toàn bộ hệ thống tự động hóa bao gồm từ khâu sản xuất đến khâu bốc dỡ, vận chuyển hàng cho Công ty CP Bột giặt Lix thuộc Tập đoàn Hóa chất. Chúng tôi làm được hai hệ thống dây chuyền sản xuất tự động như vậy và được chủ đầu tư đánh giá rất tốt, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất, giảm rủi ro trong quá trình sản xuất và năng suất lao động rất cao.
Hay là trong thời gian vừa qua, trong lĩnh vực thủy điện thì chúng ta đã rất thành công trong việc mà thiết kế chế tạo toàn bộ phần thiết bị, cơ khí thuỷ công cho các công trình thủy điện theo Quyết định 797/CP-CN và Quyết định số 400/CP-CN của Thủ tướng Chính phủ, trong đó các doanh nghiệp trong nước đã hoàn toàn tự lực, tự cường từ khâu thiết kế đến khâu gia công, chế tạo đến khâu thực hiện các dịch vụ kỹ thuật mà cụ thể là các dự án thủy điện Sơn La 2.400 MW , dự án thủy điện Lai Châu là 1.200 MW và góp phần đưa dự án thủy điện Sơn La vào vận hành sớm 3 năm và thủy điện Lai Châu vận hành sớm là 1 năm.
Bên cạnh những thành công rất tiêu biểu cho việc phát triển thị trường của doanh nghiệp cơ khí trong nước, TS. Phan Đăng Phong cũng chỉ ra rằng, việc đáp ứng thị trường cơ khí trong nước và xuất khẩu thì chúng ta vẫn đang còn rất khiêm tốn, đặc biệt là trong lĩnh vực thiết bị toàn bộ, ví dụ như các nhà máy về nhiệt điện, thuỷ điện, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, xi măng hoặc sản xuất nguyên liệu,… thì chúng ta mới đáp ứng chưa đến 30% giá trị nhu cầu thiết bị.
Theo tôi, nguyên nhân mà chúng ta chưa đáp ứng được nhiều là do chúng ta chưa có đủ, chưa có nhiều doanh nghiệp “sếu đầu đàn” để sở hữu các công nghệ nguồn, đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án trọn gói.
Ví dụ như trong lĩnh vực đường sắt đô thị hiện nay, hoặc là trong lĩnh vực các nhà máy điện khí, doanh nghiệp chưa có đủ các năng lực để làm tổng thầu hoặc làm trọn gói. Chỉ khi chúng ta có những doanh nghiệp đủ năng lực để làm tổng thầu thì chúng ta mới có thể phát triển các thiết bị phụ trợ của các dây chuyền thiết bị. Còn nếu chúng ta không làm chủ được thì nước ngoài làm chủ về phần này, họ sẽ đi thuê lại các nhà thầu, có thể là nước ngoài hoặc các nhà thầu phụ trong chuỗi của họ hoặc các nhà thầu phụ tại Việt Nam. Như vậy, chúng ta sẽ rất bị động trong phát triển các thiết bị phụ trợ.