Công tác quản lý AT-BHLĐ
Có thể nhận định, bộ máy làm công tác AT-BHLĐ của TKV tương đối hoàn chỉnh, lực lượng làm công tác ATLĐ bao gồm: Ban AT-BHLĐ; Phòng AT-BHLĐ ở thành viên thuộc TKV có cán bộ chuyên trách tham mưu giúp lãnh đạo về công tác AT-VSLĐ (chưa kể đến lực lượng đông đảo 5.792 ATVSV; đặc biệt từ năm 2005, TKV đã quết định bổ nhiệm tại mỗi đơn vị thành viên 01 phó giám đốc chuyên trách an toàn. Trong TKV có Trung tâm Cấp cứu Mỏ, được đầu tư các thiết bị tiên tiến, thường xuyên kiểm tra phòng ngừa tai nạn sự cố và đảm nhiệm công tác huấn luyện lực lượng cấp cứu mỏ (CCM) bán chuyên cho các đơn vị hầm lò nâng cao nghiệp vụ đảm đương công việc sơ cứu ban đầu khi sự cố xảy ra. Trung tâm cũng đã tham gia nhiều lĩnh vực về an toàn hầm lò như: Tổ chức đo đạc, kiểm soát hàm lượng khí Mêtan cũng như kiểm định một số thiết bị phòng nổ, đáp ứng một phần cho sản xuất an toàn.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, TKV đã tập trung đầu tư trí tuệ, nhân lực, tiền của... cho công tác AT-VSLĐ-PCCN, nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu sự cố tai nạn lao động đến mức thấp nhất trong quá trình sản xuất.
2. Công tác huấn luyện, tuyên truyền giáo dục về AT-VSLĐ
TKV luôn xác định công tác huấn luyện, tuyên truyền giáo dục về AT-VSLĐ là việc làm hết sức quan trọng. Do đặc điểm của ngành Than rất đa dạng, khó khăn phức tạp, điều kiện làm việc tiềm ẩn nhiều nguy cơ có thể cháy nổ, sự cố tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Chính vì lẽ đó, đội ngũ lao động trong ngành không những được đào tạo kỹ lưỡng ban đầu mà còn phải thường xuyên được huấn luyện và đào tạo lại về kỹ thuật, kỹ năng lao động và an toàn để ý thức thường trực trong việc thực hiện các quy trình quy phạm trong quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do yêu cầu của CNH, HĐH đất nước với việc đầu tư ngày càng nhiều về vốn, công nghệ mới, thì yêu cầu xây dựng đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ ngày càng cấp thiết, đảm bảo cho sự tăng trưởng vững chắc của Ngành, đồng thời, đảm bảo an toàn cho máy móc thiết bị và con người trong quá trình sản xuất. Công tào đào tạo, đào tạo lại và bồi huấn cho các đối tượng là cán bộ quản lý, cán bộ phụ trách công tác an toàn, cán bộ và công nhân vận hành sử dụng thiết bị theo định kỳ… được TKV coi là nhiệm vụ rất quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm tự phòng tránh TNLĐ, nghiêm chỉnh chấp hành những quy định về an toàn tại các vị trí sản xuất khác nhau.
Tuy nhiên, trong công tác này, TKV còn phải tiếp tục củng cố, thống nhất tài liệu, giáo trình, giáo án cho từng chuyên ngành một cách sát thực, nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển của ngành Than. Theo phân cấp quản lý, hàng năm TKV tổ chức các đợt huấn luyện cho 03 đối tượng chính: Người lao động, người sử dụng lao động và người làm công tác AT-VSLĐ;
Nội dung huấn luyện đối với người lao động phải làm cho người lao động hiểu rõ: Nội quy an toàn lao động, vệ sinh lao động; điều kiện lao động, các yếu tố nguy hiểm, độc hại gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và biện pháp phòng ngừa; những kiến thức cơ bản về kỹ thuật an toàn lao động, vệ sinh lao động; công dụng, cách sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân; các biện pháp tự cải thiện điều kiện lao động tại nơi làm việc; những quy định cụ thể về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại nơi làm việc; đặc điểm sản xuất, quy trình làm việc và các quy định an toàn lao động, vệ sinh lao động bắt buộc người lao động phải tuân thủ khi thực hiện công việc.
Đối với người sử dụng lao động, nội dụng huấn luyện, đào tạo phải truyền tải được: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an toàn lao động; hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, quy phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động; các quy định của pháp luật về chính sách, chế độ BHLĐ; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động trong công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động; các quy định cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động; các yếu tố nguy hiểm, có hại trong sản xuất; các biện pháp cải thiện điều kiện lao động; tổ chức quản lý và thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại cơ sở; trách nhiệm và những nội dung hoạt động của tổ chức công đoàn cơ sở về an toàn lao động, vệ sinh lao động; quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Đối với người làm công tác AT-VSLĐ, ngoài các nội dụng huấn luyện như đối với người sử dụng lao động, còn phải huấn luyện các nội dung sau:
- Phương pháp xác định các yếu tố nguy hiểm, có hại trong sản xuất; các biện pháp về kỹ thuật an toàn và phòng chống cháy nổ, kỹ thuật vệ sinh lao động, phòng chống độc hại, cải thiện điều kiện lao động; phương pháp triển khai công tác kiểm tra và tự kiểm tra an toàn lao động, vệ sinh lao động, nghiệp vụ khai báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo định kỳ TNLĐ, bệnh nghề nghiệp.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về AT-VSLĐ-PCCN cũng phải đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức, để nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân về AT- VSLĐ, áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền như panô, áp phích, tranh vẽ về an toàn phát hành rộng rãi cho các đơn vị treo ở nơi sản xuất để mọi người nhìn thấy hàng ngày.
3. Công tác kiểm tra về AT-VSLĐ
Trong mỗi năm, TKV tổ chức nhiều đợt kiểm tra về AT-VSLĐ-PCCN theo nhiều hình thức: Kiểm tra việc thực hiện hộ chiếu, quy trình, quy phạm, biện pháp kỹ thuật an toàn và hiện trường sản xuất ở tất cả các đơn vị sản xuất; kiểm tra trước và sau mùa mưa bão; kiểm tra chéo giữa các đơn vị; kiểm tra báo động sự cố; các đơn vị tự kiểm tra định kỳ, đột xuất, theo chuyên đề; kiểm tra, đôn đốc các đơn vị lập hệ thống giám sát và tổ chức giám sát ATLĐ; phối hợp với công đoàn, đoàn Thanh niên kiểm tra việc thực hiện các nội dung thi đua đảm bảo AT-VSLĐ trong sản xuất.
Tất cả các cuộc kiểm tra đều nhằm phát hiện những vi phạm về KTAT ở các khâu sản xuất, kịp thời yêu cầu các đơn vị thực hiện các biện pháp khắc phục. Kết quả thực hiện các kiến nghị đã phần nào hạn chế được sự cố tai nạn lao động, bảo vệ sức khoẻ cho người lao động và giúp cho sản xuất phát triển.
4. Thực hiện các chế độ về BHLĐ và vệ sinh môi trường
TKV đã thực hiện nghiêm túc các chế độ BHLĐ và vệ sinh môi trường, thể hiện ở các mặt đã làm được:
- Trang bị BHLĐ cá nhân đầy đủ và chất lượng cho người lao động theo đúng chế độ quy định của Nhà nước đối với từng ngành nghề; các máy móc phục vụ cho công tác AT-BHLĐ được mua sắm đầy đủ cả về số lượng lẫn chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc kiểm tra, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm và độc hại; thực hiện tốt các chế độ bồi dưỡng độc hại, ăn định lượng theo Chỉ thị 611/TTg của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức khám chữa bệnh định kỳ cho toàn bé CBCNV; các công trường sản xuất đều được đo đạc, khảo sát đánh giá tác động môi trường, từ đó tập trung giải quyết các yếu tố độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động như: bụi, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, nhiệt độ, hoá chất độc hại.
5. Tồn tại, nguyên nhân và nhiệm vụ công tác AT-VSLĐ-PCCN trong thời gian tới
a) Tồn tại và nguyên nhân.
Mặc dù đã chủ động đề ra nhiều giải pháp đảm bảo AT-VSLĐ và kiên quyết chỉ đạo thực hiện, song tình hình TNLĐ vẫn diễn biến phức tạp. Căn cứ vào diễn biến các vụ tai nạn lao động chết người xảy ra trong các năm qua, cũng như kết luận điều tra TNLĐ của các cơ quan chức năng cho thấy:
- Công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện, phổ biến luật pháp, kiến thức AT- VSLĐ chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức cho cán bộ, CNLĐ; phong trào phát huy sáng kiến cải thiện ĐKLĐ chưa được sâu rộng; công tác kiểm tra giám sát BHLĐ ở nhiều đơn vị còn hình thức, thiếu chủ động, chưa thành nề nếp; một số doanh nghiệp chưa kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm chỉ đạo việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ thị của các cấp quản lý và các văn bản khác về công tác AT-VSLĐ; hệ thống về bộ máy tổ chức làm công tác AT-VSLĐ- PCCN ở một số đơn vị chưa hoàn chỉnh, công tác đào tạo, tập huấn về AT-VSLĐ tại một số nơi chưa được thực sự quan tâm; các quy định của Nhà nước về quản lý các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động ở một số nơi chưa thực hiện đầy đủ; một số sai phạm nghiêm trọng về quản lý công tác an toàn chưa được kịp thời xử lý, làm hạn chế tác dụng của pháp luật về BHLĐ; vệ sinh công nghiệp và môi trường lao động chưa tốt do công nghệ thiết bị lạc hậu còn phổ biến, nhưng doanh nghiệp chưa tích cực áp dụng công nghệ mới, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; việc kiểm tra phát hiện bệnh nghề nghiệp ở một số đơn vị sản xuất còn hạn chế do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan; ý thức tự giác chấp hành kỷ luật của một bộ phận công nhân lao động chưa cao.
b) Nhiệm vụ:
Trong thời gian tới, đối với công tác AT-VSLĐ- PCCN, Tập đoàn TKV cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Củng cố, kiện toàn hệ thống cán bộ làm công tác BHLĐ từ Tập đoàn, Tổng Công ty đến cơ sở, chọn lựa các cán bộ có năng lực, nhiệt tình, trách nhiệm đó đảm nhận công tác này; chú trọng thực hiện đề phòng tai nạn từ xa thông qua công tác kiểm tra, giám sát các cơ sở, kiến nghị các biện pháp xử lý các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật BHLĐ; tăng cường công tác tự kiểm tra của cơ sở, coi đây là việc quan trọng nhất, có hiệu quả nhất và cần thực hiện thường xuyên; kiểm định các thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về KTAT; kiên quyết xử lý những trường hợp do chủ quan của người sử dụng lao động gây thiệt hại, vi phạm chính sách BHLĐ; rà soát, bổ sung, sửa đổi, kiến nghị ban hành các văn bản, quy phạm phù hợp với điều kiện từng đơn vị theo hướng tăng cường công tác AT-VSLĐ, bảo vệ môi trường; nghiên cứu bổ sung, biên soạn lại các tài liệu huấn luyện về AT-VSLĐ, chú ý những công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ, những ngành nghề nặng nhọc, nguy hiểm, đặc thù trong ngành; tổ chức các phong trào thi đua và các hoạt động có nội dung về BHLĐ để tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch BHLĐ...