TÓM TẮT:
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Dữ liệu được thu thập từ 250 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và áp dụng phương pháp hồi quy đa biến để phân tích dữ liệu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố Chất lượng dịch vụ có mức ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tiếp theo lần lượt là các nhân tố: Năng lực cạnh tranh, Chi phí, Yếu tố về mối quan hệ và cuối cùng là Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ.
Từ khoá: lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics, quyết định lựa chọn, thuê ngoài dịch vụ logistics, tỉnh Đồng Nai.
1. Đặt vấn đề
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay đã mang đến những công nghệ mới, tạo ra cơ hội để logistics vận hành hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng, giảm thiểu chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ đã trở thành mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp logistics trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Theo ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), thị trường logistics Việt Nam có sự tham gia của khoảng 43.000 doanh nghiệp trong nước, tuy nhiên thị phần chỉ chiếm khoảng 30% và hầu hết các doanh nghiệp logistics chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Chính vì thế, đã kìm hãm tiềm năng phát triển của nền kinh tế, khiến Việt Nam chưa thể khai thác hết lợi thế của mình trong cuộc đua cạnh tranh toàn cầu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh một cách hiệu quả và tối ưu hóa chuỗi cung ứng toàn diện là thuê ngoài dịch vụ logistics. Bằng việc thuê ngoài, các doanh nghiệp có thể tập trung tối đa nguồn lực và thời gian vào các hoạt động cốt lõi, đồng thời giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện nay đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn đối tác phù hợp, từ đó có thể ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Đồng Nai được biết đến là một tỉnh, thành có vị trí địa lý thuận lợi, gần các cảng biển lớn, nhiều khu công nghiệp đang hoạt động, được xem là cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh và là hành lang vận chuyển hàng hóa Bắc - Nam. Song cho đến nay Đồng Nai vẫn còn chưa phát huy tối đa lợi thế này. Nguyên nhân do hệ thống logistics tại Đồng Nai còn nhiều hạn chế, từ hạ tầng yếu kém, doanh nghiệp nhỏ lẻ, thiếu nhân lực chất lượng đến việc phụ thuộc quá nhiều vào các tuyến giao thông chính. Tất cả những yếu tố trên chính là các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển hoạt động logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ tập trung vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhằm đưa ra những hàm ý để nâng cao khả năng thu hút và lựa chọn của khách hàng. Đồng thời, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành Logistics và làm giảm chi phí dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2. Cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu
2.1. Khái niệm về quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ
Quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sẽ thuê ngoài một đơn vị chuyên nghiệp để đảm nhận toàn bộ hoặc một phần các hoạt động logistics như vận chuyển hàng hóa bằng nhiều phương thức khác nhau (đường bộ, đường biển, đường hàng không), quản lý kho bãi, thực hiện các thủ tục hải quan và thậm chí là cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng như đóng gói, bảo hiểm hàng hóa.
Thuật ngữ “Outsourcing” là sự kết hợp của ba từ tiếng Anh “Outside’’ “Resource” và “Using” có nghĩa là sử dụng nguồn lực bên ngoài, được nhắc đến như là một chiến lược kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn (Quinn, 1999). Bằng cách thuê ngoài, doanh nghiệp sẽ giảm thiểu đáng kể chi phí đầu tư vào cơ sở vật chất, công nghệ và nhân lực. Các nhà cung cấp dịch vụ thuê ngoài thường sở hữu đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm và hệ thống quy trình làm việc hiệu quả, giúp doanh nghiệp hoàn thành công việc nhanh chóng, chất lượng. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể tập trung vào phát triển sản phẩm, dịch vụ mới và mở rộng thị trường.
Nhóm tác giả nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau cả ở Việt Nam và nước ngoài về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics từ nhiều khía cạnh và góc nhìn khác nhau.
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước như: “Các tiêu chí cốt lõi ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ tại TP. Hồ Chí Minh” của Đặng Nguyễn Tất Thành (2014) đã đưa ra 6 tiêu chí tương quan dương đến quyết định chọn công ty logistics, bao gồm: (1) Tin cậy, (2) Đảm bảo, (3) Hữu hình, (4) Đồng cảm, (5) Đáp ứng, (6) Giá cả. Kết quả nghiên cứu cho thấy Đáp ứng được xem là thành phần quan trọng nhất, ảnh hưởng mạnh nhất.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Gấm (2017) đã chỉ ra có 6 yếu tố tác động đến quyết định thuê ngoài dịch vụ logistics chịu sự tác động của các yếu tố theo thứ tự giảm dần như sau: Quan điểm quản trị, Đáp ứng, Hữu hình, Tin cậy, Đồng cảm, Đảm bảo, Chi phí.
Hay trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Diệu Hoa và Bùi Duy Linh (2023) với đề tài: “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thuê ngoài dịch vụ logistics của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam” đã đưa ra các yếu tố bao gồm: (1) Giảm chi phí, (2) Năng lực cốt lõi, (3) Chiến lược của doanh nghiệp, (4) Kiểm soát rủi ro, (5) Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ logistics. Kết quả cho thấy, Giảm chi phí là yếu tố quan trọng nhất.
Đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba” của nhóm tác giả Từ Văn Bình và Nguyễn Thành Kiên (2016) cho thấy: có 4 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba của công ty bao gồm: (1) Chi phí dịch vụ, (2) Danh tiếng, (3) Hiệu suất hoạt động và (4) Mối quan hệ lâu dài. Kết quả cho thấy yếu tố ảnh hưởng chủ yếu phụ thuộc vào Chi phí dịch vụ.
Hay “Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ Logistics tại Thái Lan: Quan điểm chủ hàng của Ruth và Nucharee (2011) lại cho thấy có 6 yếu tố tác động đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics gồm: (1) Tin cậy, (2) Đáp ứng, (3) Đảm bảo, (4) Đồng cảm, (5) Hữu hình, (6) Chi phí.
EA Ejem và cộng sự (2021) tập trung vào việc đánh giá và lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba với mô hình nghiên cứu gồm 5 nhân tố tác động đến lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba của Nigeria gồm: (1) Mức độ dịch vụ, (2) Giá cả, (3) Khả năng tài chính, (4) Danh tiếng, (5) Mối quan hệ lâu dài. Kết quả cho thấy Mức độ dịch vụ là quan trọng nhất.
Hay Berna Bulgurcu và Gulsun Nakiboglu (2018) thực hiện nghiên cứu với mô hình gồm 5 tiêu chí tác động đến lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba: (1) Chi phí, (2) Chất lượng dịch vụ/ vận hành, (3) Năng lực kinh doanh, (4) Đặc điểm chung của doanh nghiệp, (5) Yếu tố quan hệ. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra tiêu chí Chất lượng dịch vụ/vận hành là tiêu chí quan trọng nhất.
Nghiên cứu của Damianos P. Sakas và cộng sự (2023) đã cho thấy 5 yếu tố tác động đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics gồm: (1) Chi phí, (2) Chất lượng dịch vụ, (3) Năng lực cạnh tranh, (4) Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ, (5) Yếu tố về mối quan hệ. Kết quả chỉ ra, Chất lượng dịch vụ là quan trọng nhất.
Như vậy, có thể nhận định có nhiều quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam đã có những hoạt động nghiên cứu nhằm phân tích, chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics nhằm mục đích nâng khả năng thu hút khách hàng.
2.2. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước đây ở trong nước và ngoài nước kết hợp với điều kiện thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm 5 nhóm nhân tố với 20 biến quan sát như sau: Chi phí (COS), Chất lượng dịch vụ (QOS), Năng lực cạnh tranh (COM), Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ (GCL), Yếu tố về mối quan hệ (REF).
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Giả thiết H1: Chi phí (COS) có ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Giả thiết H2: Chất lượng dịch vụ (QOS) có ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Giả thiết H3: Năng lực cạnh tranh (COM) có ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Giả thiết H4: Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ (GCL) có ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Giả thiết H5: Yếu tố về mối quan hệ (REF) có ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
3. Phương pháp nghiên cứu và thiết kế thang đo lường các khái niệm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện với phương pháp định tính kết hợp định lượng. Dữ liệu dùng trong nghiên cứu là dữ liệu sơ cấp được thu thập hình thức khảo sát trực tuyến bằng cách gửi bảng câu hỏi đã thiết kế bằng phần mềm Google biểu mẫu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã và đang thuê ngoài dịch vụ logistics của các nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Cỡ mẫu dùng trong nghiên cứu định lượng là theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ với 1 - rất không hài lòng đến 5 - rất hài lòng, sử dụng 23 biến quan sát đo lường cho 6 khái niệm nghiên cứu gồm 1 biến phụ thuộc và 5 biến độc lập. Dữ liệu thu thập sau khi sàng lọc được phân tích bằng phần mềm SPSS 27.0, nhằm kiểm định chất lượng thang đo, mức độ phù hợp của mô hình, các giả thiết trong mô hình nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng cách thảo luận trực tiếp với các chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết thúc thời gian khảo sát từ tháng 6/2024 đến tháng 7/2024, nhóm tác giả đã thu thập về 241/250 phiếu trả lời. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ, còn lại 234 phiếu phiếu hợp lệ.
Qua phân tích số liệu khảo sát từ 234 phiếu trả lời hợp lệ, nhóm tác giả đã nhận thấy trong mẫu có 17.5% là công ty cổ phần, 67.1% là công ty TNHH, 13.2% là DN tư nhân và còn lại là loại hình khác. Về lĩnh vực hoạt động có 23.9% DN thuộc lĩnh vực công nghiệp - sản xuất, 61.1% là DN thuộc lĩnh vực thương mại - dịch vụ và DN thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 15.0%. Theo thống kê về số năm hoạt động, có 47.4% DN hoạt động từ 1 đến dưới 5 năm và 52.6% DN hoạt động từ 5 năm trở lên.
4.1. Kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha cho các thang đo
Nhóm tác giả sử dụng phân tích Cronbach’s Alpha để kiểm định độ tin cậy cho các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Kết quả kiểm định cho thấy các biến quan sát đều có Hệ số tương quan tổng biến phù hợp (≥ 0.3). Hệ số Cronbach’s Alpha đều phù hợp (≥ 0.6) nên đạt yêu cầu về độ tin cậy.
Bảng 1. Độ tin cậy của thang đo
STT |
Thang đo |
Biến quan sát bị loại |
Hệ số Alpha |
Kết luận |
1 |
REF |
Không |
0.763 |
Chất lượng |
2 |
QOS |
Không |
0.820 |
Chất lượng tốt |
3 |
COM |
Không |
0.754 |
Chất lượng |
4 |
COS |
Không |
0.797 |
Chất lượng |
5 |
GCL |
Không |
0.851 |
Chất lượng tốt |
6 |
DCL |
Không |
0.826 |
Chất lượng tốt |
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, 2024
4.2. Phân tích nhân tố khám phá
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) đối với các biến độc lập với hệ số KMO = 0.792; kiểm định Bartlett có Sig. = 0.000 và tổng phương sai trích = 64.270%, tại Eigenvalue = 1.361, đồng thời tất cả các biến đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu cầu (> 0.5). Qua quá trình phân tích nhân tố với phương pháp Principal components analysis và phép quay Varimax cho kết quả 5 nhân tố với 20 biến quan sát, bao gồm: Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ (GCL), Chất lượng dịch vụ (QOS), Chi phí (COS), Yếu tố về mối quan hệ (REF), Năng lực cạnh tranh (COM).
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) đối với các biến phụ thuộc: với hệ số KMO = 0.721; kiểm định Bartlett có Sig. = 0.000 và tổng phương sai trích = 74.218%, tại Eigenvalue = 2.227, đồng thời tất cả biến đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu cầu (> 0.5).
Như vậy, kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) của các biến độc lập và biến phụ thuộc là phù hợp và có thể sử dụng kết quả này cho phân tích hồi quy ở bước tiếp theo.
4.3. Phân tích hồi quy tuyến tính
Kết quả phân tích cho thấy mô hình có hệ số R2 hiệu chỉnh là 70.7%, tức là sự biến thiên quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics được giải thích bởi các nhân tố là 70.7%, còn lại 29.3% được giải thích bởi các biến khác nằm ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên; mức ý nghĩa Sig. = 0.000 cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính phù hợp với các tập dữ liệu, mô hình có thể sử dụng được. Hệ số Durbin-Watson = 1.981 nằm trong khoảng 1.5 đến 2.5 cho thấy mô hình không có hiện tượng tương quan và hệ số VIF < 2 chứng tỏ mô hình hồi quy không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Phương trình hồi quy chuẩn hóa của mô hình nghiên cứu có dạng như sau:
Bảng 2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá đối với các biến độc lập
Rotated Component Matrixa |
|||||
|
Component |
||||
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
GCL4 |
0.849 |
|
|
|
|
GCL3 |
0.844 |
|
|
|
|
GCL2 |
0.835 |
|
|
|
|
GCL1 |
0.776 |
|
|
|
|
QOS4 |
|
0.797 |
|
|
|
QOS3 |
|
0.773 |
|
|
|
QOS1 |
|
0.748 |
|
|
|
QOS2 |
|
0.689 |
|
|
|
COS4 |
|
|
0.797 |
|
|
COS2 |
|
|
0.790 |
|
|
COS3 |
|
|
0.776 |
|
|
COS1 |
|
|
0.677 |
|
|
REF3 |
|
|
|
0.799 |
|
REF4 |
|
|
|
0.762 |
|
REF2 |
|
|
|
0.723 |
|
REF1 |
|
|
|
0.718 |
|
COM2 |
|
|
|
|
0.777 |
COM1 |
|
|
|
|
0.734 |
COM3 |
|
|
|
|
0.732 |
COM4 |
|
|
|
|
0.683 |
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, 2024
Bảng 3. Bảng kết quả Coefficients
Coefficientsa |
||||||||
Model |
Unstandardized Coefficients |
Standardized Coefficients |
t |
Sig. |
Collinearity |
|||
|
|
B |
Std. Error |
Beta |
Tolerance |
VIF |
||
1 |
(Constant) |
.195 |
.170 |
|
1.148 |
.252 |
|
|
X_REF |
.127 |
.028 |
.171 |
4.603 |
.000 |
.912 |
1.096 |
|
X_QOS |
.367 |
.028 |
.549 |
12.944 |
.000 |
.699 |
1.431 |
|
X_COM |
.163 |
.033 |
.200 |
4.980 |
.000 |
.784 |
1.276 |
|
X_COS |
.145 |
.031 |
.186 |
4.639 |
.000 |
.784 |
1.275 |
|
X_GCL |
.076 |
.020 |
.136 |
3.724 |
.000 |
.944 |
1.059 |
|
a. Dependent Variable: Y_DCL |
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, 2024
Y_DCL = 0.549 * X_QOS + 0.200 * X_COM + 0.186 *X_COS+ 0.171 * X_REF + 0.136* X_GCL + ε
Qua Bảng 3, kết quả phân tích cho thấy nhân tố Yếu tố về mối quan hệ (REF), Chất lượng dịch vụ (QOS), Năng lực cạnh tranh (COM), Chi phí (COS), Đặc điểm chung của nhà cung cấp dịch vụ (GCL) đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Nhân tố Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, với hệ số hồi quy (β = 0.549). Nếu nhân tố Chất lượng dịch vụ tăng 1 đơn vị thì quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sẽ tăng 0.549 đơn vị.
Nhân tố Năng lực cạnh tranh (β = 0.200) ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nếu nhân tố Năng lực cạnh tranh tăng 1 đơn vị thì quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sẽ tăng 0.200 đơn vị.
Nhân tố Chi phí (β = 0.186) ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nếu nhân tố Chi phí tăng 1 đơn vị thì quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sẽ tăng 0.186 đơn vị.
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 nhân tố ảnh hưởng tích cực đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Trong đó, nhân tố “Chất lượng dịch vụ” ảnh hưởng mạnh nhất. Để nâng cao quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics, các nhà cung cấp dịch vụ logistics cần theo dõi và kiểm soát chặt chẽ quá trình vận chuyển, từ đó đảm bảo hàng hóa được giao đúng hẹn, đúng chất lượng và đúng địa điểm, góp phần xây dựng một chuỗi cung ứng linh hoạt và đáp ứng nhanh nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp dịch vụ logistics cần cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ cho khách hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Đặng Nguyễn Tất Thành (2014). Các tiêu chí cốt lõi ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics tại TP. Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hồng Gấm (2017). Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định thuê ngoài dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh và Bình Dương. Luận văn Thạc sĩ Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Banomyong R., & Supatn N. (2011). Selecting logistics providers in Thailand: A shippers' perspective. European journal of marketing, 45(3), 419-437.
- Binh T. V. (2016). Factors Impacting on the Selection of Third Party Logistics Provider. China-USA Business Review, 616-627.
- Bulgurcu B., & Nakiboglu G. (2018). An extent analysis of 3PL provider selection criteria: A case on Turkey cement sector. Cogent Business & Management, 5(1), 1-17.
- Ejem E. A., Uka C. M., Dike D. N et al (2021). Evaluation and selection of Nigerian third-party logistics service providers using multi-criteria decision models. LOGI - Scientific Journal on Transport and Logistics, 12(1), 135-146.
- Linh B. D., & Hoa N. T. D. (2023). Factors influencing the decision to outsource logistics services of small-and medium-sized enterprises in Vietnam. Journal of International Economics and Management, 23(1), 106-118.
- Quinn J. B. (1999). Strategic outsourcing: leveraging knowledge capabilities. MIT Sloan Management Review, 40(4).
- Sakas D. P., Giannakopoulos N. T., Kanellos N., et al (2023). Determining Factors for Supply Chain Services Provider Selection and Long-Term Relationship Maintenance: Evidence from Greece. Logistics, 7(4), 1-21.
|