Ngôi làng của những tay kim

Gần 400 năm rồi, người dân làng Quất Động (xã Quất Động, huyện Thường Tín - Hà Tây) vẫn miệt mài ngồi thêu bên giá, dường như đối với họ, chỉ có nghề thêu này thôi cũng đã quá đủ cho họ trong cuộc đời

     Hỡi cô mà thắt bao xanh

     Có về Quất Động với anh thì về

Quất Động anh đã có nghề

Thêu gà thêu vịt, thêu huê trên cành

Thêu cả tranh sơn thủy hữu tình

Thêu cả tranh ảnh của mình của ta.

 

Cả làng cùng... thêu

Nằm cách Hà Nội chừng 15 km về phía nam, làng Quất Động xã Quất Động, huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, từ lâu đã nức tiếng khắp từ Nam chí Bắc về nghề thêu truyền thống của mình. Chuyện kể rằng, vào khoảng đầu thế kỷ 17, một vị quan nhà Lê, tên là Lê Công Hành, sau khi đi sứ Trung Hoa, đã về đây truyền thụ nghề thêu cho dân làng. Kể từ đó, làng Quất Động có nghề thêu. Trải qua bao đời, bao thế hệ tiếp nối, phát huy và gọt giũa những tinh hoa nghề nghiệp, sản phẩm của “làng thêu” với những nét đặc sắc, mang đậm tính dân tộc đã không chỉ được tiêu thụ trong tầng lớp bình dân thời bấy giờ, mà còn được các tầng lớp quí tộc vua quan ưa chuộng, bởi các sản phẩm độc đáo như các bức thêu long phụng, uyên ương hồ điệp... Không những thế, sản phẩm từ những đôi bàn tay khéo léo của thợ làng cũng đã theo chân các lái buôn vượt sang biên giới lân bang Ai Lao, Xiêm La..., trở thành một trong những đặc trưng văn hoá Đại Việt cùng với tranh sơn mài và nhiều thứ khác.

 Nhớ ơn ông tổ nghề, hàng năm vào ngày giỗ ông 12/6 Âm lịch, dân làng Quất Động và thợ thêu Thăng Long tổ chức lễ tế rất trang trọng tại làng và Tú Đình Thị (đình thợ thêu) ở số 2A Yên Thái (Hà Nội ngày nay). Phố Hàng Thêu xưa nay là đoạn cuối phố Hàng Trống bây giờ.

 Thời gian trôi mau, mặc cho cuộc đời dâu bể thăng trầm, nghề thêu Quất Động vẫn được gìn giữ và phát huy đời nay sang đời khác. Đến thời bao cấp cả xã Quất Động là một hợp tác xã thêu với hàng nghìn xã viên. Hàng thêu Quất Động được thu mua qua các công ty, tổng công ty để xuất khẩu sang nhiều nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), sản xuất ra bao nhiêu hết bấy nhiêu. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, cùng với cuộc khủng hoảng chính trị của Liên Xô và nhiều nước Đông Âu, thị trường tiêu thụ lớn nhất từ trước tới nay tan vỡ, giống như bao làng nghề khác, Quất Động cũng phải đối mặt với sự sống còn của làng nghề, tưởng chừng khó vượt qua. Nhiều gia đình vì cuộc sống hàng ngày đã từ bỏ, bê trễ nghề của ông cha. Những chiếc bàn, chiếc khung thêu tưởng chừng khó có ngày được hoạt động trở lại, nằm chờ “con nhện giăng tơ”. Song, khó khăn ấy lại cũng chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của làng. Người dân làng Quất Động đã nhau bươn trải khắp nơi để tìm nơi tiêu thụ sản phẩm của làng. Bằng cách nắm bắt nhu cầu thị trường, mở rộng, đa dạng cơ cấu sản phẩm, con đường phía trước của nghề thêu Quất Động đã được hanh thông. Nếu như trước đây, sản phẩm thêu Quất Động chỉ là khăn ăn, khăn trải bàn, thì giờ đã có thêm nhiều mặt hàng mới có giá trị kinh tế cao, đó là tranh thêu, áo thêu xuất khẩu... Nhưng điều đáng mừng hơn cả là, mặc dù vừa phải trải qua “bão tố thị trường” nhưng người dân trong làng vẫn “son sắt, thuỷ chung” với nghề. Có thể nói rằng, cả làng Quất Động là cả một xưởng thêu lớn, người người thêu, nhà nhà thêu.

Về Quất Động vào một ngày đầu năm, dù lúc này mùa màng không còn bận rộn lắm, chúng tôi cảm thấy thật mừng và cũng thật ngạc nhiên khi đường làng không có bóng trẻ em đùa nghịch. Hỏi ra mới biết, tất cả đều đang ngồi bên khung thêu. Chúng tôi gặp chị Nguyễn Thị Mứt (thôn Quất Động), gia đình có 4 người, hai vợ chồng và hai con trai đều làm nghề thêu. Chị cho biết: “ở Quất Động, không như nhiều nơi khác, nghề thêu được truyền từ đời này sang đời khác, kể cả con gái nơi khác về lấy chồng làng cũng được truyền dạy”. Nghề thêu nghe qua tưởng chừng đơn giản, nhàn tản, “mưa không tới mặt, nắng không tới đầu”, nhưng quả thật, để thành một thợ thêu chẳng hề dễ dàng, chứ chưa nói gì đến trở thành một tay kim giỏi. Ngoài những đức tính cần cù nhẫn nại, khéo léo, người thợ cần phải có được bộ óc tinh tế, con mắt tinh tường, có khiếu thẩm mỹ. Chị Mứt còn cho biết thêm, muốn hoàn thành một sản phẩm thêu, người thợ bắt buộc phải trải qua các công đoạn xem xét kỹ mẫu, căng nền, sang kiểu, chọn chỉ màu, rồi mới tiến hành thêu, tỉa. Trong kỹ thuật thêu, công phu hơn cả là các đường viền, đường lượn sao cho các sợi chỉ quyện vào nhau mịn màng, chân chỉ của từng chiếc đài hoa, chiếc lá cứ đều tăm tắp như xén. Để thêu một cành hoa, một cánh bướm lượn, nhất là thêu một bức tranh, người thợ thêu phải gò mình hàng chục cho đến hàng trăm giờ bên khung thêu. Không chỉ có vậy, họ vừa phải thêu vừa phải suy nghĩ pha trộn màu sắc ra sao cho đoá hoa phải như đang hàm tiếu, con bướm đang lượn..., mọi cảnh vật phải sống động như thật. Và muốn đạt được như vậy, phải học từ nhỏ, ban đầu chỉ là thêu chơi cho quen cách cầm kim, xỏ chỉ, rồi dần dần mới đến cách đâm mũi kim sao cho nhỏ chân, kéo chỉ vừa độ căng, chân chỉ phải bằng và tỉa miết sao cho khít, mềm mượt và nhất là khi phối mầu, phải tan (hoà) vào nhau. Đừng nghĩ học thêu chỉ cần vai ba năm đã thành nghề vì dù khéo tay đến mấy cũng phải thêu nhiều, cần cù học hỏi tới gần chục năm mới mong thêu được bằng chỉ tơ (chỉ tơ nhỏ bằng nửa chỉ thường và khi thêu bằng ba công thêu chỉ thường). Và khi đã thêu được tranh rồi mà muốn thêu được chân dung thì phải đạt đến bậc nghệ nhân. Một bức tranh thêu đơn giản khổ 20 x 25 cm, một người phải ngồi thêu miệt mài tới 2 ngày, công thêu chỉ là 20.000 đồng, một chiếc áo truyền thống kiểu Hàn Quốc thêu 10 ngày công, chỉ được 80-100.000 đồng, có bức tranh thêu kỹ tới 3 tháng mà chỉ bán được trên 1 triệu đồng... Biết vậy, nhưng người dân vẫn cứ yêu nghề và từ đời này sang đời khác, họ vẫn truyền nghề cho nhau, phải chăng với họ, nghề thêu đã trở thành máu thịt. Song, “công bằng mà nói, nghề thêu mặc dù thu nhập không cao nhưng nó tranh thủ được lúc nhàn rỗi và mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người nông dân để nuôi sống gia đình. Hơn thế nữa, nó còn là nghề truyền thống, đặc trưng của làng mấy trăm năm nay rồi, nên ai cũng cố bảo nhau gìn giữ lấy nét đẹp của cha ông”. Anh Phạm Văn Xe, trưởng thôn Quất Động đã tâm sự như vậy với chúng tôi.

Thôn Quất Động, nơi anh làm trưởng thôn hiện có khoảng 2000 khẩu với 405 hộ, hầu như tất cả đều theo nghề thêu và có tới vài chục thợ giỏi. Nghề thêu tuy thu nhập chẳng là bao, nhưng ở thôn cũng như xã, nhiều gia đình nhờ nghề này phát triển mà con cái được học hành như nhà Trang Đức, nhà bà Tố chuyên thêu tranh, một nhà có tới 6,7 khung thêu hay nhà Vẻ Đẹp mở xưởng thêu áo xuất sang Hàn Quốc, tạo công ăn việc làm cho hàng chục nhân khẩu trong làng... Và như vậy, chắc hẳn “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, đây cũng là điều đáng mừng nhất trong những điều đáng mừng nhất của làng. Nghề thêu đã, đang và sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới.

Những “hòn ngọc” nghề thêu.

Trước khi về Quất Động, tình cờ tôi được nghe kể về thợ thêu Lê Đức Thái, người mà ngay từ đầu những năm 30, thế kỷ XX, thời kỳ được coi là cực thịnh của nghề thêu Quất Động, lúc bấy giờ còn có tên là làng Quýt, đã lập công ty Hồng Thái chuyên sản xuất hàng thêu xuất khẩu sang Hồng Kông, Mác - xây (Pháp). Nhờ những sản phẩm của những thợ thêu Quất Động, Công ty Hồng Thái đã nhanh chóng trở nên phát đạt, mở được đại lý tại nhiều thàng phố lớn ở châu Âu như Paris (Pháp), Viên (áo)... Hiện nay, nhiều thợ làng thêu Quất Động cũng đã trở thành nghệ nhân nổi tiếng. Ông Phạm Việt Tương, người được phong nghệ nhân, giờ đã qua đời, song những tác phẩm của ông, đặc biệt là bức ảnh Bác Hồ vẫn được dân làng lưu giữ như một báu vật, bởi tất cả sự tinh tuý của nghệ thuật thêu đang tiềm ẩn trong đó. Đúng như lới ông đã nói:"nghề thêu, ngoài yếu tố kỹ thuật, người thợ còn cần tâm hồn nghệ sĩ”. Có lẽ, chính cái tâm hồn nghệ nghệ sĩ ấy đã tạo ra sự kỳ diệu cho bàn tay các nghệ nhân Quất Động. Bức tranh thêu nhà vua Thái Lan, Phu Mi Bon A Đun Da Dệt do nghệ nhân Thái Văn Bôn, người Quất Động nay đang sống tại Hà Nội tặng nhân dịp lần thứ 72 ngày sinh nhật của Nhà vua, được thêu với những đường nét sống động, sự gọt tỉa từng mũi kim tinh tế đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật có giá trị lớn trong bộ sưu tập của hoàng gia Thái Lan. Chúng tôi đã gặp ông Phạm Viết Đinh, một trong số thợ giỏi nhất của làng, ở độ tuổi “thất thập” nhưng ông còn tinh tường lắm, nhất là khi ngồi làm việc cùng đường kim, mũi chỉ. Hàng ngày, ông ngồi bên khung thêu từ sáng tới tối và dưới bàn tay ông là những cánh đồng dậy hương lúa chín, những đêm trăng thả thuyền buông câu, những chiều đông hồ Gươm xao xác heo may... Vừa thêu những bức tranh do một số hoạ sĩ nước ngoài đặt hàng, ông còn tập trung vào sáng tác những bức phong cảnh Việt Nam, tỉ mỉ sửa những bức tranh do cháu thêu, đồng thời truyền lại bí quyết cho cô cháu gái nhỏ. Với ông, nghề thêu là tất cả cuộc sống. Bức thêu muốn đẹp, người thợ thêu phải gửi hồn vào trong đó, mà theo ông tức là phải tỉa, luyện màu qua những mảnh sáng tối, nét đậm nhạt, có khi phải tách sợi chỉ ra làm đôi làm ba nếu cần, sao cho màu sắc, hình ảnh đang thêu thật sống động. Nhìn tay kim của ông lên xuống nhanh thoăn thoắt, tôi bỗng nhớ tới bài trống quân phường thêu Quất Động khi xưa:"Lấy chồng thợ thêu sướng như ông tiên nho nhỏ, trong nhà thắp đèn tỏ tỏ sáng hơn sao. Tay cầm kim như Triệu Tử múa đao, ngồi vắt chân như Khổng Minh xem sách...” và hiểu được phần nào vì sao người thợ thêu Quất Động lại yêu nghề đến thế, sao Quất Động lại có thể làm ra những sản phẩm tuyệt vời đến thế.

Thay cho lời kết

Qua một vài người làng kể, tôi được biết có nhiều doanh nhân nước ngoài đến Quất Động để được tận mắt nhìn thấy người thợ làng thao tác trên những khung thêu, một số người trong số họ đã lén ghi hình tất cả những dụng cụ, động tác, thao tác của người thợ để đến khi quay về “học lỏm” nghề. Những doanh nhân này đã sản xuất ra những chiếc máy thêu trên cơ sở như vậy, song cũng không thể nào tạo ra được những sản phẩm có hồn, sinh động như những sản phẩm thêu Quất Động. Có lẽ chính vì thế mà những sản phẩm thêu ở đây mới có sức sống trường tồn và những người thợ thêu nơi đây mới kiên trì giữ nghề như vậy. Đây phải chăng là một trong những thế mạnh của sản phẩm thủ công Việt Nam, thế mạnh của nghề truyền thống quí báu Việt Nam, không chỉ người làng thêu, thợ nghề Quất Động mà mỗi chúng ta phải phải cố gắng gìn giữ, phát huy./.

  • Tags: