Rất tiếc cho đến nay, Việt Nam chưa có một báo cáo nào về sự đóng góp của khoa học - công nghệ nói riêng và của các viện nghiên cứu nói chung trong nền kinh tế, trong khi đó, các nước khác đều có sự đánh giá tỷ lệ đóng góp của lực lượng khoa học, công nghệ vào GDP nước mình (Trung Quốc năm 1999, KHCN đã đóng góp 35% GDP). Do đó, cũng là điều dễ hiểu, khi các nhà quản lý khoa học, công nghệ thường xuyên phàn nàn rằng, Nhà nước ít quan tâm, chưa đầu tư thích đáng vào KH-CN. Ngược lại, Nhà nước lại không nhìn thấy rõ hiệu quả của việc đầu tư cho KH-CN và cảm thấy hàng năm mất nhiều tỷ đồng, nhưng kết quả không rõ nét. Vậy thực trạng hoạt động của các viện nghiên cứu trong thời gian qua ra sao và giải pháp nào để các viện nghiên cứu phát huy được vai trò đi đầu trong nền “kinh tế tri thức” như đã được nêu trong Nghị quyết IX của Đại hội Đảng lần thứ IX?
Về tổ chức các viện, trung tâm nghiên cứu.
Trong thời gian bao cấp, chúng ta chỉ có 2 loại viện, đó là viện thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, một số tỉnh thành và viện thuộc Nhà nước như Viện Khoa học Việt Nam. Đây là là thời kỳ hoàng kim của các viện và các trung tâm nghiên cứu (VTTNC), thường được coi là niềm tự hào về tiềm năng khoa học và công nghệ của đất nước. Do vậy, các cấp, các ngành và địa phương thi nhau thành lập các viện, các trung tâm nghiên cứu đủ loại.
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thì ngày 24/10/1996 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 782/QĐ-TTg về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu - triển khai khoa học và công nghệ. Tiếp theo đó là các Quyết định 141/1998/QĐ-TTg; Quyết định 202 và 230/10088/QĐ-TTg và các cơ quan nghiên cứu trọng điểm Nhà nước được xếp theo 3 loại như sau:
- Các tổ chức nghiên cứu phát triển thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia và các tổ chức nghiên cứu phát triển thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
- Các tổ chức nghiên cứu phát triển trực thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ.
- Các tổ chức nghiên cứu phát triển trực thuộc Tổng Công ty Nhà nước.
Sau khi sắp xếp lại, số lượng các tổ chức nghiên cứu phát triển trọng điểm của Nhà nước chỉ còn 96 đơn vị so với 233 trước năm 1996.
Đây là thời kỳ có thể nói, nhiều tổ chức nghiên cứu đã bị thu hẹp qua sắp xếp lại các tổ chức nghiên cứu phát triển trọng điểm Nhà nước, nên nhiều viện đã biến thành công ty hoặc hoạt động theo kiểu công ty và đa dạng hoá chức năng nhiệm vụ, nhằm duy trì đội ngũ cán bộ nghiên cứu hiện có bằng bất cứ hình thức nào.
Theo tinh thần của Quyết định 782/TTg thì ngoài các tổ chức nghiên cứu của 2 Trung tâm Khoa học Quốc gia thì đối với các viện trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và yêu cầu phát triển, Nhà nước tiếp tục cấp kinh phí hoạt động và tập trung đầu tư phát triển. Còn đối với các viện trực thuộc các tổng công ty, Bộ chủ quản và các tổng công ty có trách nhiệm quản lý và giao nhiệm vụ để hoạt động của Viện gắn với hoạt động của Tổng công ty. Nhà nước tiếp tục hỗ trợ quỹ lương và chi phí hoạt động bộ máy (của Viện) trong thời gian không quá 5 năm tính từ thời điểm ngày 24/10/1996.
Chất lượng và hiệu quả của các viện và trung tâm nghiên cứu.
Chúng ta không thể phủ nhận nhiều đóng góp to lớn của các VTTNC cho đất nước trong thời bao cấp hay thời đổi mới. Nhưng hiệu quả của công tác khoa học và công nghệ có thể nói là không đạt yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới và chưa xứng đáng với tiền của mà Nhà nước đầu tư.
Chất lượng hoạt động của những viện và trung tâm nghiên cứu thuộc diện hưởng ngân sách Nhà nước có thể nói là còn thấp. Theo đánh giá của nhiều Bộ, của những nhà quản lý thì việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất trong thời gian qua, nói theo cách hình tượng là:”Đề tài thì ở trên trời, còn cuộc đời thì ở dưới đất. Mà đất và trời thì lại quá xa nhau”. Nghĩa là, nhiều nhà khoa học “xịn” với “bằng cấp đầy người”, cả cuộc đời nghiên cứu, đưa ra hàng chục đề tài khoa học, nhưng không một đề tài nào được ứng dụng vào cuộc sống. Hàng tỷ đồng tiền lương và kinh phí cấp cho đề tài vẫn được các nhà khoa học lĩnh đều. Trong khi đó, nhiều người dân có những phát minh, sáng chế thực sự được ứng dụng thì không được hưởng chính sách đãi ngộ. Theo thống kê, nếu như năm 1996, mức chi phí cho khoa học - công nghệ là 611 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 1995, chiếm 0,89% tổng chi Ngân sách Nhà nước (NSNN) và bằng 0,2% GDP, thì trong năm 2002 vừa qua, chi cho khoa học - công nghệ đã tăng lên 2.814 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2001, chiếm 2,1% trong tổng chi NSNN và bằng khoảng 0,5% GDP.
Chất lượng của các VTTNC trực thuộc các tổng công ty cũng không sáng sủa hơn nhiều. Theo số liệu của một nghiên cứu về các viện trực thuộc các tổng công ty của một Bộ, thì số lượng các đề tài nghiên cứu thành công được ứng dụng vào thực tế mới chỉ ở mức khiêm tốn, 15,3% tổng số đề tài được nghiên cứu. Thực tế, các viện trực thuộc tổng công ty hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực như, nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, dịch vụ tư vấn, chuyển giao kỹ thuật công nghệ... và các viện chưa thực sự gắn bó lắm với hoạt động của tổng công ty.
Mục tiêu gắn kết nghiên cứu với sản xuất cũng được nhiều viện quan tâm chú ý. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện nay và thực tế khi nguồn kinh phí chi lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học và hoạt động bộ máy của các viện phần lớn không còn, thì mục tiêu này ít được chú ý hơn so với mục tiêu sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ các kiểu có thể, nhằm có nguồn thu để nuôi sống cán bộ, công nhân viên làm nghiên cứu. Phần lớn các viện thuộc tổng công ty đang làm những công việc chủ yếu để có thu nhập là chính mà không mang tính KHCN.
Vậy nguyên nhân nào đã để xảy ra nhiều “đề tài trên trời”.
Nguyên nhân khiến khoa học - công nghệ nước ta chưa đủ khả năng đáp ứng đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội có thể có rất nhiều. Nhưng ở đây xin chỉ bàn đến một góc độ nhỏ, đó là, cơ chế tài chính cho các viện chưa phù hợp.
Trong những năm qua, có thể nói, Nhà nước đã không tiếc tiền của và sức đầu tư cho khoa học - công nghệ, nhưng cơ chế phân phối kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho KHCN còn nhiều điều bất cập. Thí dụ, việc chi lương và hoạt động của bộ máy chỉ chiếm 16,64% tổng số nguồn chi. Cho nên, có vị Bộ trưởng khi trả lời chất vấn trước Quốc hội cũng phàn nàn là các “viện sĩ” phải lo kiếm cơm để tồn tại đã. Do cơ chế nên đã hạn chế tính chủ động của các nhà nghiên cứu trong việc thực hiện nhiệm vụ đề ra và dẫn đến việc có nhà khoa học đã gian dối trong việc “chạy đề tài”. Trong không ít đề tài, các nhà khoa học tìm cách lý luận mông lung, vẽ việc với mục đích “đếm chữ, đếm việc ăn tiền”, không cần biết đề tài có đem lại lợi ích cho xã hội hay không. Có khi, nhiều chủ nhiệm đề tài nhận tiền đề tài tiêu vào việc riêng, còn thực hiện đề tài thì lại nhờ các cộng sự dưới quyền, chỉ cần dành ít tiền cho Hội đồng nghiệm thu là ổn. Ngoài ra, việc cấp phát kinh phí theo quý, quyết toán theo niên độ đã dẫn đến tình trạng các nhà khoa học thực hiện đề tài bằng cách đối phó như, rút ngắn đề tài, không đi kiểm nghiệm thực tế, không điều tra, làm thí nghiệm để có số liệu cụ thể...vì bị thúc ép phải thanh toán, bắt buộc phải hoàn thành đề tài...”đúng thời hạn”.
Có ý kiến cho rằng, việc cấp phát kinh phí còn theo kiểu bình quân theo đầu đề tài, không căn cứ theo nhu cầu đích thực và tính chất quan trọng cũng như mức độ hữu ích của đề tài là một điều bất hợp lý. Điều bất hợp lý nữa là việc hành chính hoá việc cấp phát kinh phí, cứ đề tài cấp Nhà nước là kinh phí cao hơn đề tài cấp Bộ và đề tài cấp Bộ cao hơn đề tài cấp cơ sở. Trong thực tế, không ít đề tài cấp cơ sở lại giải quyết được những vấn đề ứng dụng tầm cỡ quốc gia, đòi hỏi kinh phí lớn, nhưng cơ chế lại không cho phép chi mức lớn như vậy.
Một bất cập nữa là chưa đa dạng hoá được các hình thức cấp phát kinh phí từ Ngân sách Nhà nước dành cho nghiên cứu, hiện nay, chủ yếu chỉ “rót” cho các cơ quan Nhà nước, các nhà khoa học có đủ “nhãn mác”. Trong khi đó, các doanh nghiệp và những người có năng lực, có tâm huyết tham gia nghiên cứu những vấn đề khoa học, có ứng dụng thực tế nhưng chưa có đủ “học vị” lại không được cấp kinh phí triển khai đề tài.
Còn nhiều người lại cho rằng, do chúng ta chưa có cơ chế tài chính buộc người nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng, phải có “địa chỉ” sử dụng kết quả nghiên cứu để làm căn cứ xét duyệt đề tài và cũng là căn cứ để xét duyệt đề tài kỳ sau. Cho nên, nhiều đề tài nghiên cứu xong, không cần quan tâm có “địa chỉ” sử dụng hay không, tác giả vẫn được nhận đề tài khác do đã “hoàn thành xuất sắc”, mặc dù những nghiên cứu trước đó của tác giả không ứng dụng được.
Một vấn đề nữa, là do thủ tục lấy kinh phí phức tạp, nên đã sinh ra “luật bất thành văn” là khi lĩnh tiền đề tài thì “biết điều” để lại “ít phần trăm” cho người cấp, để còn dễ dàng lấy tiền đợt sau. Một thực tế, do cơ chế là đề tài khi đấu thầu thì số điểm rất cao dành cho những người có nhiều “nhãn mác” dẫn đến tình trạng là họ nhận “hộ” người khác và hưởng tỷ lệ phần trăm mà không phải làm gì. Đây cũng là điều bất hợp lý, cần phải nghiên cứu thay đổi cho phù hợp. Nếu không thay đổi, dẫn đến người thực sự có công trình không được mang tên và không được hưởng lợi xứng đáng, ngược lại, sinh ra loại người có rất nhiều công trình nghiên cứu mà lại chẳng phải nghiên cứu gì, ngoài việc ký tên. Đây cũng là điều bức xúc mà nhiều đại biểu Quốc hội đã có ý kiến khi thông qua Luật Khoa học công nghệ.
Còn các viện thuộc tổng công ty thì phần lớn đều cho rằng, tổng công ty chưa tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí và các mặt khác cho viện hoạt động. Đối với các viện phải “tự lo”, chưa có sự hỗ trợ từ phía tổng công ty thì gặp nhiều khó khăn và các hoạt động nghiên cứu triển khai ít được đầu tư chú ý bằng các hoạt động dịch vụ, tư vấn, kinh doanh...
Có một nguyên nhân nữa ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu của các viện trực thuộc tổng công ty là sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhất là cấp lãnh đạo tổng công ty chưa đều, chưa tương xứng với mức độ cần thiết, vai trò và nhiệm vụ của viện trong các Tổng Công ty. Ngoài ra, sự quan tâm của cơ quan quản lý nghiên cứu khoa học của Bộ chủ quản cũng như của Bộ Khoa học Công nghệ có phần “nhạt” và buông lơi.
Những kiến nghị để các viện nghiên cứu phát triển
- Cơ chế cấp phát tài chính hiện nay là không phù hợp, cần phải sửa đổi, như đã nói ở trên.
- Nhiều ý kiến cho rằng, việc phân chia và sắp xếp các viện như Quyết định 782/TTg là chưa hợp lý. Họ đề nghị Nhà nước nên phân chia ra làm 3 loại viện như sau: Viện nghiên cứu khoa học công nghệ cơ bản; Viện nghiên cứu khoa học - công nghệ ứng dụng nền; Viện nghiên cứu ứng dụng chuyên ngành. Vì vậy, Nhà nước cần xác định rõ những lĩnh vực nào thuộc khoa học - công nghệ cơ bản. Đây là những lĩnh vực nghiên cứu có tính chiến lược lâu dài và để Việt Nam có thể tự chủ mà không bị lệ thuộc vào nước ngoài và giữ gìn an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của mình. KHCN ứng dụng nền, đây là những nghiên cứu ứng dụng mà kết quả của nó có ứng dụng vào nhiều ngành kinh tế khác nhau và đón đầu công nghệ hiện đại trong một thời gian nhất định. Còn lĩnh vực nghiên cứu KHCN chuyên ngành chỉ giải quyết cho một ngành cụ thể nào đó. Nếu phân chia theo kiểu này thì viện nào Nhà nước cũng cần phải quan tâm và cấp kinh phí hoạt động. Bên cạnh đó, có các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong các doanh nghiệp. Các trung tâm này có hay không tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp.
- Hiện nay, một số người có quan điểm cho rằng, muốn thúc đẩy KHCN phát triển, thì cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ và cụ thể. Và họ đưa ra ý kiến, trước mắt, phải đưa cơ sở nghiên cứu vào các doanh nghiệp. Nghe ra thì hay, nhưng bài học về việc đưa viện về các tổng công ty hiệu quả thấp vẫn đang còn giá trị thời sự, cho nên nhiều nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách đang lúng túng trước sáng kiến này. Vì, muốn đưa các viện nghiên cứu về các doanh nghiệp thì cần phải trả lời được những câu hỏi sau: Đưa cơ sở nghiên cứu vào các doanh nghiệp như thế nào? Cơ chế quản lý ra sao? Vốn đầu tư lấy từ đâu? Tổ chức và hoạt động của cơ sở nghiên cứu thế nào?...Có lẽ sáng kiến trên chỉ phù hợp với các trung tâm nghiên cứu ứng dụng KHCN trong các doanh nghiệp. Nhiều người đang lo ngại trước sáng kiến kiểu này và không hiểu với sáng kiến kiểu tương tự như vậy có thể đưa nước ta phát triển và trở thành nước có nền kinh tế tri thức như nhiều người đang hy vọng hay không?
- Cần đảm bảo đời sống tốt cho các cán bộ nghiên cứu và các nhà khoa học giỏi thật sự và có thang lương, chính sách riêng cho nghiên cứu viên. Vấn đề này, có viện trưởng đã mong, lương của các nghiên cứu viên chỉ cần bằng lương trung bình của các tổng công ty như Điện lực hay Bưu chính - Viễn thông. Chúng ta cần phải có cách tuyển chọn những nhà khoa học giỏi thật sự, chứ không phải giỏi qua các “nhãn mác”, nhiều khi lại có thể “mua” được như hiện nay. Thật là buồn khi đi đâu cũng gặp Tiến sĩ, Phó Giáo sư Tiến sĩ và Giáo sư Tiến sĩ nhưng lại ít thấy công trình nào để thế giới kính nể!
- Cần thay đổi chính sách đào tạo và chính sách đãi ngộ cho những người nghiên cứu khoa học ở nước ta.
- Có người nêu câu hỏi: Tại sao Việt Nam lại bỏ đào tạo Tiến sĩ khoa học? Nếu chúng ta không có chính sách đào tạo Tiến sĩ khoa học thì chúng ta khó có thể có các nhà khoa học đầu ngành. Đề nghị cần có chính sách đào tạo Tiến sĩ khoa học vì trình độ giữa tiến sỹ và tiến sỹ khoa học là một khoảng cách dài.
Hiện nay, chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thì việc Nhà nước cần nhận thức rõ vai trò KHCN là cực kỳ quan trọng và Nhà nước cần phải nắm lấy lực lượng này, chỉ có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có khả năng hội nhập kinh tế quốc tế thành công và mới có khả năng trở thành nước “giầu mạnh và văn minh”./.