Vậy công nghệ sinh học là gì? công nghệ sinh học là một tập hợp các ngành khoa học và công nghệ (sinh học phân tử, di truyền học, vi sinh vật học, sinh hoá học và công nghệ học) nhằm tạo ra các quy trình công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp các hoạt động sống của vi sinh vật, tế báo động vật và thực vật để sản xuất các sản phẩm có giá trị phục vụ đời sống, phát triển ,inh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Công nghệ sinh học bao gồm các loại công nghệ và kỹ thuật chủ yếu đó là: Công nghệ vi sinh, công nghệ tế bào, công nghệ mô- công nghệ men(enzym) và kỹ thuật di truyền.
Cùng vơí các ngành công nghệ mũi nhọn khác như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học góp phần khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và tạo ra những tiền đề cần thiết cho công nghệ sinh học trong thế kỷ XXI.
Theo tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX với mục tiêu chính là xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn lấy an toàn sinh thái làm cơ sở cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; nghiên cứu ứng dụng một cách có chọn lọc các thành tựu khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học của thế giới, phục vụ thiết thực có hiệu quả sự phát triển bền vững nông, lâm, ngư nghiệp, bảo quản, chế biến nông sản cũng như bảo vệ môi trường trong nông nghiệp - nông thôn. Tạo dựng mạng lưới từ nghiên cứu đến sản xuất những sản phẩm của công nghệ sinh học có đủ năng lực, đáp ứng sự đòi hỏi của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, xây dựng hệ thống giống đủ mạnh dựa trên cơ sở công nghệ sinh học như: xây dựng hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, bảo đảm giống tốt về chất lượng, đủ về số lượng, đặc biệt chú trọng các công nghệ nhân giống nhanh nhằm tăng năng suất từ 20-50% so với giống hiện nay. Bảo đảm cung cấp đủ giống đến từng hộ nông dân, với quan điểm giống là phương tiện lao động đầu tiên, căn bản nhất của hộ nông dân. Thông qua hệ thống giống, nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, mặt nước và nguồn lao động dồi dào. Trên cơ sở đó, nâng cao năng suất, chất lượng, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn: hình thành mô hình nông nghiệp công nghệ cao; nông nghiệp hữu cơ (hạn chế tói đa việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp) ở Việt Nam.
Theo quan điểm phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp hiện đại thì ngành Công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp là hệ thống sản xuất có khả năng tạo giống, nhân giống và khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào và cơ thể sống của động thực vật ở quy mô sản xuất công nghiệp. Công nghiệp công nghệ sinh học hiện đại chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự nhiên và công nghiệp. Cho nên, công nghiệp công nghệ sinh học phải bao hàm tổng hoà những thành tựu khoa học và công nghệ như tin học, điện tử, điều khiển học, vật liệu mới, hoá học... Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể tạo ra một ngành công nghệ sinh học hiện đại.
Đối với nông nghiệp Việt Nam chủ trương phát triển cả 3 loại hình công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp như:
- Xây dựng mạng lưới các cơ sở sản xuất trung bình và nhỏ từ trung ương đến địa phương như: Các phòng thí nghiệm sản xuất, các pilot (sản xuất bán công nghiệp), các trạm trại, vườn ươm tạo giống và nhân giống cây trồng, vật nuôi.
- Xây dựng các xí nghiệp lớn là các xí nghiệp công nghiệp lên men chế biến nông sản và chế biến thức ăn giàu chất dinh dưỡng...
- Xây dựng các tổ hợp hoặc thành phố công nghiệp công nghệ sinh học quy hoạch theo vùng kinh tế sinh thái trong tương lai.
Để phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp, thì Việt Nam phải dựa vào những tiềm năng sẵn có, mà khai thác một cách có hiệu quả diện tích đất canh tác, thông qua hệ thống giống (cây trồng, vật nuôi và chủng loại vi sinh vật vật mới). Đồng thời, dựa vào tiềm năng, thế mạnh của nền nông nghiệp Việt Nam là nguồn nhân lực dồi dào và có học thức khá (6-7triệu thanh niên nông dân đang còn thiếu việc làm), (có hơn 10 triệu ha đất chưa được khai thác)... Công nghiệp công nghệ sinh học phải đảm bảo thu hút với quy mô lớn các nguyên vật liệu nông sản thô, từ đó tạo ra những sản phẩm chế biến với chất lượng cao, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp lớn, các khu công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, các thị trường dịch vụ nông nghiệp trong nước và quốc tế.
Phát triển công nghiệp công nghệ sinh học luôn phải liên kết chặt chẽ với an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường sinh thái, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát và xử lý các nguồn gây ô nhiễm dịch bệnh. Đồng thời cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo, khai thác và sử dụng nhân tài được coi là yếu tố then chốt nhất trong phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp.
Nhiệm vụ phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới là: Xây dựng cơ sở vật chất và tiềm năng con người trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai và sản xuất theo phương thức công nghệ các sản phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp; xây dựng các tổ hợp nghiên cứu và sản xuất công nghệ sinh học nông nghiệp thuộc lĩnh vực giống cây trồng vật nuôi, công nghiệp vi sinh chế biến nông sản, vi sinh bảo vệ thực vật, thuốc thú y và chế biến thức ăn gia súc; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao sản xuất rau quả ở Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Đà Lạt, Sa Pa, Mộc Châu và các trung tâm sản xuất giống, chế biến thức ăn nuôi trồng thuỷ hải sản ở vùng Duyên Hải.
Trong tương lai, Việt Nam sẽ xây dựng các khu công nghiệp sản xuất cây ăn quả có quy mô lớn như vùng trồng cam với 20.000 ha ở các tỉnh miền núi phía Bắc; 10.000 ha cam ở Phủ Quỳ, Nghệ An; 10.000 ha bưởi Đoan Hùng, Phúc Trạch, Năm Roi...
Phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp đóng vai trò là công nghệ chìa khoá để hiện đại hoá công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, đối với nước ta, công nghiệp công nghệ sinh học hãy còn là một ngành kinh tế mới hình thành, cho nên cần có những biện pháp cụ thể, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, vận dụng sáng tạo và khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực trong thời gian tới. Thực hiện liên doanh sản xuất và chuyển giao công nghệ sinh học tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam và coi đây là một biện pháp phát triển nhanh.
Hiệu quả Kinh tế xã hội của sự phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp là xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái bảo đảm tính bền vững của quá trình phát triển nông nghiệp với quy mô sản xuất lớn, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và Chính phủ đã nêu trong nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Việt Nam./.