Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh 2018

Cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp lợi dụng điều này để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp khác và cả người tiêu dùng.

Cơ sở xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018, “hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”.

Về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của một chủ thể kinh doanh trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, được cụ thể hóa bằng nguyên tắc “thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh”, dẫn đến gây thiệt hại hiện hữu hoặc tiềm tàng đối với quyền và lợi ích hợp pháp của một chủ thể kinh doanh khác.

Từ khái niệm trên, dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh được xác định trên cơ sở các yếu tố sau:

Thứ nhất, chủ thể của hành vi là doanh nghiệp, nghĩa là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào kinh doanh vì mục đích sinh lợi;

Thứ hai, đây là hành vi trái với các nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh;

Thứ ba, hành vi này nhắm tới ít nhất một doanh nghiệp cụ thể khác, có thể trực tiếp nhắm tới đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường liên quan hoặc cùng một ngành, lĩnh vực kinh doanh với chủ thể của hành vi hoặc gián tiếp thông qua việc tác động đến doanh nghiệp khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh (chẳng hạn, khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh...);

Thứ, Hành vi này gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm

Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 quy định 06 nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm theo quy định của Luật này và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm theo quy định của luật khác, gồm các hành vi sau:

  1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh;
  2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác;
  3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác;
  4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
  5. Lôi kéo khách hàng bất chính;
  6. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó;
  7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác.

Trong đó, hành vi “xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh” bị cấm khi thực hiện dưới một trong các hình thức sau đây:

  1. Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó;
  2. Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó.

Hình thức của hành vi “ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác” được khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 là việc “ép buộc hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó”.

Hành vi “lôi kéo khách hàng bất chính” là hành vi mới được bổ sung trong Luật Cạnh tranh 2018. Theo đó, hành vi này được thể hiện dưới một trong các hình thức sau đây:

  1. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác;
  2. So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung.

Xử lý vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh

Nguyên tắc xử lý các vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh là tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc buộc phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Hình thức và mức độ xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Điều 110; 111 Luật Cạnh tranh 2018; Điều 3, 4 Chương I và Mục 4, Chương II Nghị định số 75.

Theo đó, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:

  1. Phạt chính: cụ thể gồm hình thức phạt tiền;
  2. Phạt bổ sung;
  3. Biện pháp khắc phục hậu quả.

Đối với hình thức phạt tiền, các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 2 tỷ đồng, tùy vào tính chất, mức độ và quy mô thực hiện hành vi vi phạm.

Điểm khác biệt về mức phạt tiền so với các hành vi vi phạm quy định về hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế đó là tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm có thể bị phạt tiền gấp hai lần mức quy định đối với hành vi đó trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.

Ngoài hình thức phạt tiền, các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh có thể bị áp dụng thêm hình thức phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu quả như tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về cạnh tranh, tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, buộc cải chính công khai, và loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, vật phẩm.

Uyên Chi