1. Tính ưu việt của chính sách.
Phạm vi và đối tượng áp dụng Nghị định 41/NĐ - CP là những người lao động dôi dư tại các doanh nghiệp giữ 100% vốn nhà nước cơ cấu lại theo các hình thức chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, hoặc doanh nghiệp nhà nước thực hiện sáp nhập, hợp nhất, giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản...
Tính ưu việt của NĐ 41/CP được thể hiện ở chế độ trợ cấp cho người lao động dôi dư với nhiều mức độ khác nhau. Chẳng hạn, trường hợp người lao động đủ 55 tuổi trở lên đến dưới 60 tuổi (đối với nam), đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi (đối với nữ), có thời gian đóng bảo hiểm đủ 20 năm trở lên được nghỉ hưu, không phải trừ phần trăm lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Điều lệ Bảo hiểm xã hội, ngoài ra, còn được hưởng một số khoản trợ cấp do nghỉ hưu trước tuổi; trường hợp người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật Lao động, nhưng còn thiếu thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối đa một năm thì được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đóng tiếp bảo hiểm xã hội một lần cho những tháng còn thiếu, với mức 15% tiền lương tháng tại thời điểm đủ tuổi nghỉ hưu và giải quyết nghỉ hưu theo chế độ hiện hành; trường hợp lao động bị mất việc làm, được tính trợ cấp mất việc làm, tiền trợ cấp thêm theo thời gian thực tế làm việc, tiền trợ cấp một lần với mức 5 triệu đồng và trợ cấp đi tìm việc làm; trường hợp người lao động phải đi đào tạo hoặc đào tạo lại sẽ được học nghề miễn phí tối đa 6 tháng tại các cơ sở dạy nghề do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ định…
Nhìn chung, theo phân tích, tính toán các khoản mà người lao động được hưởng theo chế độ, chính sách mà NĐ 41/CP quy định và nhận xét của một số cán bộ làm công tác công đoàn - người đại diện và bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của người lao động, thì hầu hết người lao động dôi dư đều nhận thấy tính ưu việt của chế độ này, cũng như lợi ích mà họ được hưởng. Thậm chí, nếu so sánh thu nhập của người lao động tiếp tục làm việc ở doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, hoặc kém hiệu quả, thì giá trị trợ cấp mà Nhà nước giải quyết cho họ còn được nhiều hơn.
2. Những kết quả ban đầu
Công đoàn Công nghiệp Việt Nam cho biết, mặc dù chưa có tổng kết về công tác này, nhưng nhìn chung, việc thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo NĐ 41/CP của Bộ Công nghiệp khá suôn sẻ và đã đạt được một số kết qủa bước đầu, không có đơn từ khiếu nại của người lao động ở doanh nghiệp. Sau khi được Bộ Công nghiệp thẩm định và Bộ Tài chính kiểm tra các hồ sơ cần thiết, đến nay, một số doanh nghiệp đã nhận đủ tiền từ Quỹ và hoàn thành việc chi trả trợ cấp cho người lao động dôi dư để họ về nghỉ theo chế độ. Ví dụ như Công ty Cổ phần Bê tông ly tâm An Giang có 29 người dôi dư theo NĐ 41, trong đó có 5 người nghỉ hưu trước tuổi, 11 người là lao động nữ. Công ty Xây lắp Điện 3 sau khi sắp xếp, chuyển đổi một số đơn vị để thực hiện mô hình Công ty mẹ - Công ty con, với đặc thù nhiều lao động từ 50 tuổi trở lên là không thể tiếp tục “leo cao, đào sâu” được, nên sau khi sắp xếp đến nay, đã giải quyết nghỉ theo NĐ 41/CP cho 234 người. Cơ quan Văn phòng TCTy Da - Giầy Việt Nam, sau khi có quyết định giải thể, đã có 16 lao động dôi dư, ngoài 6 người về nghỉ theo chế độ của NĐ 41/CP, còn 7 người về các đơn vị trong Ngành và 3 người chuyển sang lĩnh vực công tác mới. Công ty Bóng đèn điện Quang, sau khi tiếp nhận Công ty Thuỷ tinh Phả Lại sáp nhập đã nhanh chóng đưa xí nghiệp này đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả, đồng thời đã vận động được nguồn kinh phí trả nợ bảo hiểm xã hội để giải quyết và đảm bảo chế độ cho 215 lao động dôi dư. Công ty Bóng đèn, phích nước Rạng Đông, sau khi thực hiện cổ phần hoá, ngoài giải quyết chế độ cho 16 lao động dôi dư, đã cho đi đào tạo và đào tạo lại 440 CBCNV về nghiệp vụ, công nghệ, quản lý ngắn hạn, marketing…
Theo báo cáo của Cục Tài chính Doanh nghiệp – Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 10/2003, Quỹ Hỗ trợ lao động dôi dư đã chi 409,63 tỷ đồng, cho 387 doanh nghiệp để hỗ trợ kinh phí giải quyết chế độ cho 14.749 lao động dôi dư. Trong đó, lao động dôi dư nghỉ hưu trước tuổi là 1.289 người, lao động dôi dư ký hợp đồng không xác định thời hạn nghỉ theo chế độ mất việc làm là 13.183 người, lao động hợp đồng từ 1-3 năm bị mất việc làm là 268 người.
Cũng theo đánh giá của Cục Tài chính Doanh nghiệp, việc xử lý nhanh chóng, dứt điểm lao động dôi dư trong các doanh nghiệp đã góp phần đẩy nhanh tiến trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và góp phần đáng kể trong việc cải thiện và ổn định đời sống của người lao động dôi dư khi họ rời khỏi doanh nghiệp nhà nước và không gây biến động xã hội. Cụ thể là tính đến ngày 30/10/2003, cả nước đã có 1.440 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước có quyết định chuyển đổi và riêng 10 tháng đầu năm 2003 có 340 doanh nghiệp, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2002. Qua theo dõi và thu thập số liệu của 45 doanh nghiệp, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này đã tăng lên đáng kể, chẳng hạn như so với trước khi sắp xếp, vốn của chủ doanh nghiệp tăng 24%, doanh thu tăng 32%, lợi nhuận tăng 56,8% và năng suất lao động tăng 9,6 % so với năm 2002. Ngoài chế độ được hưởng theo Luật Lao động, người lao động còn được hưởng một khoản trợ cấp bình quân khoảng 27 triệu đồng/người, thậm chí có người được nhận mức trợ cấp cao nhất là 76 triệu đồng và người thấp nhất là 3 triệu đồng.
3. Một số tồn tại và giải pháp khắc phục.
Có thể nói, chế độ đối với người lao động dôi dư mà NĐ 41 quy định có nhiều ưu đãi, hơn hẳn NĐ 176 HĐBT trước đây. Vì thế, trong thực tế, có nhiều trường hợp người lao động thiếu tuổi nghỉ hưu nhưng thừa thời gian đóng bảo hiểm theo quy định hoặc đủ tuổi nghỉ hưu nhưng thiếu 1 năm đóng bảo hiểm ở các doanh nghiệp làm việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc nhiều người lao động còn sức khoẻ, nhưng lại có thu nhập thấp do doanh nghiệp hoạt động khó khăn hoặc phải ngừng hoạt động… đã “xung phong” được về nghỉ dôi dư theo NĐ 41/CP. Cũng theo thống kê của Quỹ Hỗ trợ lao động dôi dư, trong số các doanh nghiệp được giải quyết trợ cấp, thì số lao động dôi dư bình quân là trên 20%, có nhiều doanh nghiệp số lao động dôi dư lên đến 40% - 50%, thậm chí có doanh nghiệp lên tới 70% tổng số lao động có tên trong danh sách thường xuyên tại thời điểm trước khi sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp. Điều này vượt quá dự kiến của Quỹ là số lao động dôi dư bình quân chỉ từ 10 - 15%, đồng thời cũng báo động một số vấn đề mà các doanh nghiệp và các đơn vị hữu quan cần quan tâm. Đó là thực trạng, nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, lao động dư thừa tại các doanh nghiệp quá nhiều, nhiều người lao động muốn nghỉ việc hoặc nếu tiếp tục làm việc thì công việc đó là khó khăn, vất vả, mà chế độ thu nhập chưa tương xứng với công sức của họ…
Còn theo phản ánh của Bộ Tài chính, mặc dù đã được tập huấn rộng rãi chế độ chính sách lao động dôi dư ở tất cả các ngành, các cấp, nhưng nhiều doanh nghiệp nói chung chưa quán triệt đầy đủ. Bên cạnh việc các doanh nghiệp lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí từ Quỹ còn có nhiều sai sót và nhầm lẫn, thì cơ quan thẩm định cũng tỏ ra lúng túng, làm kéo dài thời gian phê duyệt. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện và nộp báo cáo quyết toán theo đúng quy định, làm hạn chế việc kiểm tra, giám sát của Quỹ đối với việc sử dụng kinh phí… Ngoài ra, vấn đề nợ Bảo hiểm xã hội của một số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, phải giải thể, phá sản, hoặc người lao động chưa được cấp sổ bảo hiểm xã hội, người lao động thiếu hồ sơ làm căn cứ tính trợ cấp… cũng gây khó khăn cho việc thực hiện chế độ, chính sách này.
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra là từ nay đến hết năm 2005, phải sắp xếp lại hơn 2.000 doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, sẽ tiếp tục có hàng chục nghìn lao động dôi dư. Vấn đề đặt ra là để rút ngắn thời gian giải quyết lao động dôi dư, đáp ứng yêu cầu tiến độ sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt, thì các doanh nghiệp và các Bộ ngành cần nhanh chóng, tích cực hơn nữa trong việc sắp xếp, lập hồ sơ và thẩm định lao động dôi dư ở doanh nghiệp mình, ngành mình. Đồng thời, Bộ Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng cần có những biện pháp hỗ trợ, kiểm tra, giám sát tích cực hơn, để các doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ, chính sách của Nhà nước cho người lao động, tránh tình trạng thất thoát, tiêu cực có thể xảy ra.