Quy chế GSP mới này có hiệu lực
vào 1/1/2014. Hiện quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU đang
phát triển rất tích cực. EU hiện là một trong những đối tác thương mại hàng đầu
của Việt Nam
với kim ngạch thương mại hai chiều tăng 15 - 20%/năm. Từ năm 1995 - 2012, kim
ngạch thương mại hai bên đã tăng 20 lần, từ 1,5 tỉ USD lên 29 tỉ USD. Riêng năm
2012, lần đầu tiên EU vượt Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và là thị
trường lớn cho một số mặt hàng chủ lực như giày dép, may mặc, thủy sản, đồ gỗ,
điện tử, hàng tiêu dùng... Đặc điểm nổi bật trong thương mại hai chiều Việt Nam
- EU là tính bổ sung cao, ít cạnh tranh trực tiếp, trong đó cơ cấu hàng xuất
khẩu của Việt Nam đang chuyển dần sang hướng tăng tỉ trọng hàng hóa chất lượng
cao, thực phẩm sạch, thủ công mỹ nghệ; giảm tỉ trọng hàng chất lượng trung
bình, nông sản thô.
Theo ông Franz Jessen, Đại sứ đồng thời là Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng một phần là nhờ vào những lợi ích mà quy chế GSP mang lại, điển hình khoảng hơn 49% kim ngạch xuất khẩu giày dép sẽ được hưởng thuế ưu đãi từ quy chế này. Năm 2014, một số sản phẩm xuất khẩu, trong đó có cả giày dép sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi hơn theo quy chế GSP mới. Điều này sẽ thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của Việt Nam vào EU. Với quy chế GSP hiện hành, Việt Nam đã tận dụng được các ưu đãi, nhưng cần khai thác hiệu quả ở nhiều lĩnh vực, ngành hàng bằng việc nắm bắt các cơ hội từ quy chế GSP.
Ông Trần Ngọc Quân, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu, Bộ Công Thương, cho rằng, mặc dù tiêu chí trưởng thành trong quy chế GPS mới của EU nâng thị phần xuất khẩu hàng Việt Nam từ 15% lên 17% đối với các nhóm hàng hóa (trừ dệt may nâng từ 12,5% lên 14,5%), nhưng thách thức đối với Việt Nam cũng tăng đáng kể do rất nhiều nước bị loại bỏ khỏi danh sách hưởng quy chế GSP mới của EU. Vì thế, thị phần hàng nhập từ Việt Nam có khả năng tăng lên rất nhiều trong tổng lượng hàng nhập khẩu được hưởng quy chế GSP và đạt ngưỡng trưởng thành. Thực tế này dễ dẫn đến việc Việt Nam không được hưởng ưu đãi nữa.
Do đó, Hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp cần tăng cường tham vấn với Bộ Công Thương, theo dõi tiến trình đàm phán các vấn đề liên quan đến thương mại giữa Việt Nam - EU để điều chỉnh chiến lược thị trường linh hoạt; thông báo kịp thời những vướng mắc khi tiếp cận thị trường; đồng thời phối hợp cùng Bộ vận động EU tiếp tục dành những ưu đãi từ quy chế GSP cho Việt Nam.
Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ
trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) cho biết, các nước đang áp dụng
quy chế GSP cho Việt Nam gồm EU, Nhật Bản, Canađa, Thụy Sĩ và Liên minh thuế
quan Nga - Cadắctan - Bêlarút. Thực tế cho thấy, lợi ích của quy chế GSP là mức
thuế nhập khẩu giảm thấp, giúp tăng năng lực sản xuất, giải quyết việc làm và
đảm bảo tăng trưởng. Thông qua việc tận dụng quy chế GSP, nhiều mặt hàng của
Việt Nam cải thiện khả năng cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu, trong đó
thị trường EU chiếm tỉ trọng khoảng 15% và Nhật Bản chiếm tỉ trọng khoảng 10%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, quy chế GSP cũng có những hạn chế nhất định, đòi hỏi doanh nghiệp
phải nắm vững các quy định như quy tắc xuất xứ, tiêu chí trưởng thành, điều
kiện về cạnh tranh... Đồng thời, trong một số trường hợp, quy chế GSP thường
kèm theo những điều kiện phi kinh tế, danh mục và mức thuế không cố định được
điều chỉnh có định kỳ.
Nhiều chuyên gia nhận định, trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới, cùng với việc tận dụng, tranh thủ lợi thế từ
việc tham gia các hiệp định, quy chế, các doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến trình
tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hướng đến nâng cao sức
cạnh tranh. Để tận dụng hiệu quả quy chế GSP của EU, các doanh nghiệp phải hiểu
rõ ba điều kiện cơ bản: hàng hóa đáp ứng đầy đủ các quy tắc xuất xứ, vận chuyển
thẳng từ nước thụ hưởng quy chế GSP đến EU và cung cấp bằng chứng về xuất xứ
hàng hóa.