Tết đẹp ở Hà Nội

Nghìn năm Thăng Long - Hà Nội thì chắc chắn cũng đã có nghìn cái tết diễn ra với bao vẻ từng bừng vào những năm chiến thắng, phong phú vào những năm phong đăng hoà cốc và có phần ảm đạm âm trầm những

Từng có bãi cỏ bên bờ sông Tô Lịch, cuối năm thành cái chợ bán mua ít sản vật đồng quê cùng ít màu hoa tết. Cuối thế kỷ XIX, người Pháp xây chợ Đồng Xuân với 5 cầu chợ, mỗi cầu dài 52 mét, đuổi chợ tạm bên sông, thế là hoa và sản vật quê nhà tìm đến cuối con sông Tô Lịch họp nhau mà thành ra chợ hoa, trăm năm thành truyền thống. Đó là khúc sông Tô Lịch cuối cùng trong nội thành bị lấp đi vào năm 1896, nay là phố Hàng Lược, Hàng Rươi, Hàng Cót, nên khúc sông này từng mang tên phố Cống Chéo Hàng Lược hoặc phố sông Tô Lịch.
Hầu như nói không sai, không một gia đình nào Hà Nội lại không có cành đào ngày Tết. Đó là đào bích tròn trịa nhiều hoa lắm nụ, cân đối, tươi mơn mởn, sắc thắm, hoa kép, chơi bền. Đào phai cũng là hoa kép nhưng màu nhạt hơn, phớt hồng như má gái dậy thì, hợp với những tâm hồn thanh nhãn, nhẹ nhàng. Đào ta là loại đào ăn quả, mọc bạt ngàn biên giới, nhiều lộc, cánh đơn cũng chỉ phớt hồng như run rẩy trong sương giá cuối mùa đông chuyển vào xuân còn bỡ ngỡ. Lâu nay, nhiều người ưa chơi đào thế, có thể đào bích, có thể đào phai, nhưng có dáng lạ, thế lạ, thanh tao, cao khiết. Thế Trực là đứng thắng vút. Thế Trực xiêu là hơi nghiêng vài ba độ như cây bách tán cứng cáp giữa trời bão tố. Thế Huynh đệ hoặc Mẫu Tử, Phụ Tử là hai thân một cao một thấp. Thế Hoành là gốc nằm ngang, ngang với mặt chậu, thế Huyền là cành trĩu xuống, thấp hơn mặt chậu, giống như một phần nào với cánh tay người đẹp ngủ quên, hững hờ buông xuống, trong bài thơ Ngủ ngày của Hồ Xuân Hương có :
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Khiến:
Quân tử dùng dằng đi chẳng nỡ
Đi thì cũng dở, ở không xong...
Chợ hoa Hàng Lược họp suốt bảy ngày đêm, đến gần giao thừa mới vãn phiên về ăn tết. ít lâu nay, chợ hoa này thành nhỏ hẹp, đã có thêm chợ hoa mới dài hàng chục cây số suốt con đường Âu Cơ - Lạc Long Quân, gồm đủ các loài hoa, loài cây như quất, đào, mai trắng, mai vàng, thủy tiên, xương ruồng, thược dược, hoa hồng, phong lan, viôlét mà chúa tể vẫn là Hoa Đào.
Từ ngày Ông Công Ông Táo, đi trên đường phố, nhìn mọi loại xe lao đi, xe nào cũng có người ôm cành đào, chậu quất mới thấy Hà Nội đã vào xuân rất sớm và hoa mới đẹp và đông đảo làm sao...
Cũng từ khi đổi mới, sau văn minh lúa nước, văn minh công nghiệp hiện ra rờ rỡ, rõ ràng là chiếc bánh chưng tết, đã có phần vơi đi chút ít. Có nhiều nơi làm bánh, gói sẵn, lộc sẵn mang đến từng nhà theo hình thức dịch vụ, nên những bếp luộc bánh thâu đêm bập bùng say đắm và trữ tình ấm cúng đã thưa thớt dần. Nhà nào cũng có bánh chưng, nhưng là bánh chưng thửa, mấy chiếc cũng đủ, khác hẳn một thời mà nghi ngút gói bánh luộc bánh, có nhà không có củi thì luộc bằng nồi áp suất từng mẻ vài ba chiếc hoặc chập hai chiếc bếp đầu mười bấc vào đáy thùng mà luộc. Có bánh chưng tết, nhưng là tết công nghiệp, tết quá hiện đại, vơi hẳn nét quê xưa thân tình đầm ấm nghìn năm để lại.
Có thời kỳ, chiếc bàn thờ ít được coi trọng, nay ngược lại, nhà ai cũng có bàn thờ, cũng với bát nhang thì mâm ngũ quả là không thể thiếu. Đầu vị là chuối xanh và bưởi, hai thứ quả này cứ kìn kìn trảy về các gia đình. Nhà ai có điều kiện thì tìm mua quả phật thủ từ miền núi xuôi về, mỗi quả giá trị ngang mươi quả bưởi, đắt nhưng quí vì nó đẹp, nó thơm, nó sang trọng.
Cỗ bàn thì ngày càng phong phú, nhiều món lạ. Nếu trước đây, giò nem ninh mọc, thịt đông, măng hầm, giò thủ... thì ngày nay người ta còn ăn cả pa tê, giăm bông, xúc xích Đức hoặc thay mứt sen bằng kẹo công nghiệp như Xúc cù là, kẹo ngoại nhập từ nhiều nước. Không chỉ là trà sen hoặc trà Thái Nguyên, người ta còn dùng trà dây, trà túi như Lipton, Dimah.v.v.... Cỗ Hà Nội đã có phần pha tạp đi rồi.
Có một nét vô cùng yêu mến mà nhiều nơi không có là đi đón giao thừa quanh Hồ Gươm. Một vòng hồ dài khoảng hai nghìn mét, mặt đường rộng vài chục mét, gồm cả nhiều đường ngang là lối vào con dường bầu dục... lạ lùng sao, người ở đâu mà dồn vào đông thế, có chỗ không len chân được. Cứ như cả Hà Nội đổ vào đây, hoặc chí ít thì gia đình nào cũng cử một đại diện đi đón giao thừa, để lát nữa về xông nhà mình, mang khí thiêng sông núi về nhà cho ăn nên làm ra, phát tài, thịnh vượng, khoẻ mạnh, tươi vui hạnh phúc. Trai thanh gái lịch, những đôi vợ chồng già khoác tay nhau để kỷ niệm những giao thừa đã xa lắc nhưng sống lại, họ khoác tay nhau như trước đây dăm chục năm đã khoác tay nhau như thế. Nhiều đôi vợ chồng trẻ công kênh con lên cổ mà đi, trẻ mắt tròn hạt nhãn, có ánh đèn nên mắt hóa muôn ánh hào quang, lớp thiếu niên thì ôm lưng nhau mà đu mà đẩy... Nhiều khu vực chật ứ người, không ai còn đi được nữa, đành đứng lại, người nhìn người, người nọ ngắm người kia, hình như trong từng khuôn mặt kia có chứa mùa xuân đang đến, mà ngày thường không thể có.
Rồi giao thừa cũng đến. Lời chúc Tết của Chủ tịch Nước vang lên. Năm nào có pháo hoa thì quanh hồ là biển người ấy cứ như nổ tung trong tiếng hồ reo và vỗ tay, vỗ tay hoan hô ai, không ai biết. Hình như vỗ tay hoan hô mùa xuân.
Mấy năm trước, nhiều thanh niên thiếu ý thức đi bẻ cây tơi bời làm cành lộc. Nay tệ này đã bớt. Thêm phần có người bán mía cây thay cho cành lộc. Cùng là một nét sáng tạo mới của Hà Nội.
Năm 1952, cầu Thê Húc bị gẫy, sập xuống hồ, may không bị thương, chỉ ướt mất bộ quần áo đón xuân. Sau đó cầu được đúc bằng xi măng, còn đến nay, được sởn đỏ giả làm gỗ như xưa. Đón giao thừa quanh Hồ Gươm là nét phong lưu độc đáo chỉ Hà Nội mới có, để những ngày hôm sau đã là năm mới, ai cũng hỏi nhau: Năm nay, anh có đi giao thừa Hồ Gươm ? Năm nay, bác có đi giao thừa quanh Hoàn Kiếm ?... kèm theo lời chúc đầu năm an khang thịnh vượng, mạnh khoẻ sống lâu.
Hà Nội xưa nay là trái tim đất nước. Vì thế mà ai cũng muốn về Hà Nội sinh sống, thực tế là nhiều phương, trăm quê đều có người về, thành dân Hà Nội. Vì thế mà ai cũng còn chút “dây mơ rễ má” với một vùng nào đó. Tết, Hà Nội vắng đi một phần khi những ai còn quê thì đã đi tầu, đi xe về tảo mộ, thắp hương, đoàn tụ. Khác hẳn ngày Quốc khánh, Hà Nội đông lên gấp bội khi người các vùng về Hà Nội chơi Tết, ngắm cảnh thủ đô. Có lẽ cũng vì thế mà Hà Nội ít khi làm cơm thết khách, ít khi đi làm thực khách ở các gia đình khác. Ai cũng có gia đình, nhất là người Việt Nam, tết là sum họp, tết là đoàn tụ, nên chuyện đi ăn cơm khách là vạn bất đắc dĩ. Nhà ai cũng làm cỗ, nhưng trước cúng sau ăn trong gia đình thôi.
Sáng mùng một Tết, đường phố nào cũng vắng vẻ vì nhà ai cũng phải chờ có khách đến xông nhà mới mở cửa, ra đường. Nhưng sau bữa cỗ sáng, đường phố nào cũng đông nghịt, nhất là trẻ em. Đây là giờ của thiếu nhi, giờ của mùa xuân, giờ của ngày tết. Tục lệ mừng tuổi cho trẻ đã tái hiện trở lại. Nhiều em bé và nhiều cô gái mới qua vài bữa cỗ đã ngấy, nên từ mùng một, hàng bún riêu, bún ốc, nộm chua, thịt bò khô, nem chua rán đã tới tấp khách hàng. Đó cũng là nét kinh tế đã được cải thiện, được nâng cao. Cỗ bàn không còn là tiêu chí hàng đầu. Khác hẳn cách đây vài chục năm, các bà các chi phải tích góp, mua sẵn, sắm tết hàng tháng trước tết, từ sâu tôm he khô, ít măng lưỡi lợn, mộc nhĩ, nấm hương, đỗ xanh, đường miếng... Nay, có tiền hay không, ngày ba mươi sắm tết cũng thừa thì giờ. Chỉ cần ngồi nhà, “A lô” một cái thì một giờ sau một núi hàng cũng có, từ nông sản đến hàng công nghiệp, từ quần áo đến máy móc... Có người phải kêu lên: Thời đại công nghiệp thế này sướng thật!
Hà Nội ít có lễ hội của riêng mình, mà thường là lễ hội chung của cả nước. Mùng 6 đã mở cửa chùa Hương. Mùng 4 là lễ hội Đồng Kỵ. 13 là hội Lim Quan họ, và lần lượt suốt tháng, người Hà Nội có bao nhiêu chuyến đi ngắn, dài mà dự lễ hội...
Tết là thiêng liêng. Mùa xuân là tươi mới. Hà Nội lại là nơi tập trung cao độ tri thức, kinh tế, công nông nghiệp, con người và sản vật, những tinh hoa trăm đời... Hà Nội ăn Tết không khác trăm vùng, nhưng cũng đúng là khác trăm vùng, mà rõ nhất là thú chơi hoa, là nấu cỗ tài giỏi, là trang phục đẹp đẽ, là ứng xử thanh lịch...
Được ăn Tết Hà Nội là một hạnh phúc của mỗi đời người.

  • Tags: