Nền kinh tế không bị Covid-19 đánh bại
Theo tạp chí The Economist (Anh), Việt Nam là một trong những quốc gia kiểm soát đại dịch Covid-19 tốt nhất thế giới trong năm ngoái nhưng hiện đang phải đối mặt với đợt bùng phát dịch mới với các diễn biến phức tạp, buộc nhiều nơi phải thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt. Nhiều cơ sở sản xuất lớn như nhà máy sản xuất giày cho Nike (Hoa Kỳ) đến các nhà máy sản xuất điện thoại thông minh của Samsung (Hàn Quốc) buộc phải giảm công suất hoặc tạm ngưng hoạt động, gây gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, nhờ nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu nên Việt Nam vẫn luôn duy trì tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn dịch bệnh. Trong năm 2020, Việt Nam ghi nhận mức tăng GDP 2,9% trong khi hầu hết các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái sâu. Bất chấp đợt bùng phát dịch hiện nay, Ngân hàng Thế giới (WB) vẫn dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 4,8% trong năm nay.
Điểm khác biệt với các nền kinh tế cận biên khác
The Economist nhận định đây là những lý do thực sự để nâng tầm vị thế của Việt Nam trên toàn cầu. Ngoài ra, các chính sách mở đối với thương mại và đầu tư đã giúp Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tạo ra động lực tăng trưởng đáng kể trong dài hạn. Trong 30 năm trở lại đây, Việt Nam là một trong 5 quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới, vượt qua nhiều nền kinh tế khác trong khu vực.
Đáng chú ý, không như các thị trường cận biên khác tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không bị gián đoạn mà diễn ra ổn định. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Điều này đòi hỏi mức tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm phải ở mức 7%.
Vậy bí quyết thành công của Việt Nam là gì và liệu Việt Nam có thể duy trì các lợi thế này không?
Không phải không có lý do khi Việt Nam hay được so sánh với Trung Quốc vào những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 khi cả hai quốc gia đều có tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu bùng nổ. Song hai nước cũng có những khác biệt lớn.
Việc nhận định Việt Nam là nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu vẫn chưa thể hiện được hết tiềm năng của nền kinh tế. Thương mại hàng hoá của Việt Nam thường vượt đến 200% tổng GDP. Rất ít nền kinh tế trên thế giới, trừ các nước giàu tài nguyên hay các khu vực có ưu thế về thương mại hàng hải, đang hoặc đã đạt được kết quả như vậy.
Không chỉ về mức độ xuất khẩu mà bản chất của các nhà xuất khẩu Việt Nam cũng khác với Trung Quốc. Việc kết nối sâu rộng với chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như mức đầu tư nước ngoài cao khiến Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Singapore hơn.
Kể từ năm 1990, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam đạt trung bình khoảng 6% GDP mỗi năm, cao gấp đôi mức ghi nhận trên toàn cầu và nhiều hơn đáng kể so với cả Trung Quốc hoặc Hàn Quốc từng ghi nhận trong một thời gian dài.
Thách thức và động lực tăng trưởng kinh tế
Khi các nước khu vực Đông Á đã phát triển và mức lương từ đó cũng tăng theo, thì Việt Nam lại thu hút được các nhà sản xuất toàn cầu nhờ chi phí nhân công hợp lý và tỷ giá hối đoái ổn định. Điều này cũng góp phần thúc đẩy xuất khẩu bùng nổ. Trong thập kỷ qua, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đã tăng 137%, trong khi xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tăng 422%.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đang ngày càng gia tăng, đặt ra thách thức đối với tăng trưởng của Việt Nam. Các công ty nước ngoài có thể tiếp tục phát triển, cung cấp nhiều việc làm và đóng góp sản lượng kinh tế cao hơn. Nhưng việc họ có thể thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam bao xa là có giới hạn.
Do đó, tạp chí The Economist nhận định Việt Nam cần phát triển một khu vực dịch vụ có năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn. Khi mức sống tăng lên, sức hút đầu tư có thể sẽ giảm đối với các nhà sản xuất nước ngoài, và người lao động Việt Nam cũng cần có những cơ hội khác.
Thách thức tăng trưởng của Việt Nam cũng bao gồm các doanh nghiệp nhà nước. Tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước đối với việc tạo ra việc làm và thúc đẩy tăng trưởng đã dần bị thu hẹp những vẫn có tác động lớn đến nền kinh tế.
Bên cạnh đó, khu vực tư nhân của Việt Nam đang được chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ với kỳ vọng tạo ra các tập đoàn tương tự như các chaebol của Hàn Quốc hoặc keiretsu của Nhật Bản, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông Lê Hồng Hiệp, Thành viên cấp cao Viện ISEAS-Yusof Ishak (Singapore), nhận định Chính phủ Việt Nam đang "cố gắng tạo ra những nhà vô địch quốc gia".
Tuy nhiên việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển mạnh hơn trong khi vẫn cởi mở với đầu tư nước ngoài là một bài toán khó khi Việt Nam đã gia nhập nhiều hiệp định thương mại và đầu tư lớn như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Việt Nam cũng có thể hy vọng dựa vào một nguồn tăng trưởng khác. Sự bùng nổ kinh tế đã khuyến khích cộng đồng kiều bào đầu tư, hoặc thậm chí trở về nhà. Ông Andy Ho, Giám đốc đầu tư của quỹ đầu tư VinaCapital với tổng tài sản đạt 3,7 tỷ USD, nhận định “Không có nhiều nền kinh tế đang trải qua điều tương tự như Việt Nam". Ông Andy Ho cùng gia đình đến Hoa Kỳ vào năm 1977, nơi ông được đào tạo trong lĩnh vực tài chính. Năm 2004, ông Andy Ho cùng gia đình trở về Việt Nam.
Thành công của xu hướng thu hút cộng đồng kiều bào đầu tư đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nhận kiều hối lớn nhất trên thế giới, với 17 tỷ USD kiều hối trong năm ngoái tương đương với 6% GDP. Không tính đến những ảnh hưởng từ đợt dịch Covid-19 vừa qua, tạp chí The Economist nhận định Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu của “một phép màu kinh tế” mới tương tự như các nền kinh tế lớn khu vực Đông Á đã từng đạt được.