Cách đây 4 năm, ông Donald Trump trở thành Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ với lời hứa tranh củ sẽ đem việc làm từ khu vực Châu Á quay trở lại Hoa Kỳ và vực dậy nền công nghiệp nước này vốn đã suy yếu rất nhiều. Cựu Tổng thống Donald Trump cũng cam kết sẽ giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc bằng việc buộc nước này phải mua nhiều hàng hoá hơn từ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, mọi thứ lại không diễn ra theo đúng những kỳ vọng trên. Tháng 2 vừa qua trở thành tháng bận rộn nhất trong lịch sử của khu cảng biển Long Beach và cảng Los Angeles - cửa ngõ nhập khẩu hàng hoá từ Châu Á vào Hoa Kỳ và xử lý đến 40% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ qua đường biển. Trong tháng 2/2021, lượng hàng hoá Hoa Kỳ nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 40,6 tỷ USD và thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc đạt 30,3 tỷ USD.
Trong suốt thời gian cầm quyền, ông Donald Trump luôn có những phát biểu và hành động nhằm thể hiện quan điểm phi toàn cầu hoá và chủ nghĩa bảo hộ các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ trước sự cạnh tranh của Trung Quốc cũng như đảo ngược tiến trình toàn cầu hoá. Nhưng cuối cùng, không có gì ngạc nhiên khi ông Donald Trump đã thất bại.
Toàn cầu hoá hay phi toàn cầu hoá?
Thế giới ngày nay đang bị bủa vây bởi những xu thế đối lập, gồm sự cạnh tranh gay gắt giữa hai cường quốc Hoa Kỳ - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và chính trị. Bên cạnh đó là sự đối đầu giữa chủ nghĩa bảo hộ, chính sách hạn chế dịch chuyển của các chuỗi cung ứng, sự gia tăng năng lực tự sản xuất và sự cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư. Sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc kinh tế đi liền với tâm lý bài trừ người nhập cư nhưng thế giới cũng đang chứng kiến sự cạnh tranh trong việc thu hút nhân tài.
Tất cả những điều trên dường như khớp hoàn hảo với viễn cảnh địa chính trị ba cực cạnh tranh nhau trong vấn đề về nguồn nhân lực, chuỗi cung ứng và thị trường mà tiểu thuyết gia kiêm nhà bình luận văn hoá George Orwell (Anh) trong tiểu thuyết nổi tiếng “1984”.
Thay vì các địa danh Oceania, Eastasia và Eurasia trong tác phẩm văn học, ngày nay chúng ta có Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Không có khu vực nào là bá chủ. Đây đều là những khu vực không đồng nhất về hệ thống chính trị, đặc biệt là Châu Á – khu vực đa cực trong một thế giới đa phương. Đặc biệt hơn nữa, các khu vực này đều có các quan hệ lợi ích chồng chéo lẫn nhau.
Đối với Châu Âu – “trái tim” của văn hoá phương Tây nhưng về phương diện thương mại lại đang dựa phần nhiều vào phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc. Bắc Mỹ, tách biệt khỏi Châu Âu về vị trí địa lý, lại đang quy tụ được nhiều đồng minh ủng hộ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương như Ấn Độ, Nhật Bản và Australia thông qua Đối thoại Tứ giác An ninh (QUAD) để kiềm toả sức mạnh của Trung Quốc. Cuối cùng, Trung Quốc với chiến lược “Một vành đai, Một con đường” đang nỗ lực xây dựng mạng lưới các quốc gia đang phát triển phụ thuộc vào mình kéo dài từ Châu Á đến Châu Âu và lan tận đến Châu Phi.
Nhiều nhà bình luận nhận định thế giới đã chấm dứt kỷ nguyên thương mại toàn cầu cũ và tiến vào một kỷ nguyên địa chính trị mới. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn chính xác, toàn cầu hoá và địa chính trị không phải là những xu hướng đối lập. Nếu không có những tham vọng của người La Mã, Mông Cổ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và Hoa Kỳ, thế giới sẽ không có được mức độ toàn cầu hóa như hôm nay. Toàn cầu hoá và địa chính trị sẽ chẳng là gì nếu chúng không có tác động qua lại lẫn nhau như hai mặt của một đồng xu.
Hệ quả là giai đoạn cạnh tranh quyền lực mới hiện nay hầu như không gắn với cụm từ “phi toàn cầu hoá” – từ khoá thường được gợi lên sau mỗi cuộc khủng hoảng. Ngược lại, quyền lực của thế giới chưa bao giờ được “phi tập trung” theo từng khu vực mạnh như hiện tại với mối quan hệ hợp tác nội khu vực đang ngày càng được thắt chặt hơn.
Bên cạnh đó, các liên kết hợp tác quốc tế mới cũng đang được hình thành, gồm Hiệp định thương mại Hoa Kỳ - Mexico – Canada (USMCA) tại khu vực Bắc Mỹ và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) tại khu vực Châu Á. Điểm khác biệt chính ở đây là kỷ nguyên toàn cầu hóa cũ được coi là xoá nhoà đi ranh giới chủ quyền của các quốc gia thì kỷ nguyên địa chính trị mới này sẽ do các quốc gia tự quyết định.
Các quốc gia từ khu vực Châu Âu, Châu Á, Mỹ Latinh đến Châu Phi đều đang theo đuổi chiến lược liên kết đa chiều trên mọi lĩnh vực. Điều này thực sự trái ngược với tư tưởng phổ biến cho rằng thế giới đang hướng đến Trật tự 2 cực và các nước buộc phải chọn phe, giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Toàn cầu hoá sẽ biến thế giới thành một sân chơi sôi động mà ở đó, các cường quốc phải chứng minh được năng lực và trình độ của họ thông qua việc cung cấp vốn, công nghệ, hỗ trợ quân sự cũng như các hỗ trợ khác.
Từ độc quyền đến thị trường chung
Tháng 9/2010, căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ hai và lớn thứ ba thế giới, đã bùng phát sau khi một tàu cá Trung Quốc va chạm với tàu tuần duyên Nhật Bản trên khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vốn bị tranh chấp giữa hai nước. Không hài lòng với cách giải quyết của Nhật Bản, Trung Quốc đã tạm dừng xuất khẩu đất hiếm – thành phần thiết yếu trong chế tạo thiết bị linh kiện điện tử sang Nhật Bản.
Nhật Bản cũng đáp trả tương ứng bằng việc điều chỉnh dòng vốn đầu tư của mình ra khỏi Trung Quốc và hướng tới các quốc gia Đông Nam Á. Khi cả Hoa Kỳ và Nhật Bản tái cấu trúc lại các chuỗi cung ứng của mình ra ngoài Trung Quốc thì thị phần đất hiếm của Trung Quốc trên thế giới cũng giảm từ 95% trong năm 2010 xuống còn 70% trong năm 2018.
Vụ việc trên là minh chứng sống động cho thấy sự độc quyền chỉ thực sự tồn tại bởi vì chúng ta cho phép điều này xảy ra. Câu chuyện tương tự cũng có thể xảy ra đối với các quốc gia cung ứng dầu mỏ, các đồng tiền dự trữ và mạng viễn thông thế hệ thứ 5 (5G). Sự độc quyền hay áp đảo không bao giờ được đảm bảo và có thể dần suy giảm bất cứ lúc nào dù nhanh hay chậm. Nhưng có một sự thật là sự “hỗn loạn” cuối cùng cũng sẽ chiến thắng các nỗ lực tập trung quyền lực.
Soi chiếu vào hệ thống toàn cầu, điều tương tự cũng đang xảy ra rõ ràng. Nhiều quốc gia đang sử dụng các chính sách công nghệ để thúc đẩy sáng tạo và mở rộng thị phần trong lĩnh vực sản xuất, năng lượng sạch, lưu trữ dữ liệu đám mây và nhiều lĩnh vực khác. Điều này khiến quá trình toàn cầu hoá trở nên cạnh tranh hơn khi mà một làn sóng xây dựng cơ sở hạ tầng mới đang lan toả trên toàn cầu, đổi lại là sự gia tăng các dịch vụ số và mở cửa thị trường vốn.
Điều này vẫn đúng ngay cả khi khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu đang nỗ lực kéo các chuỗi cung ứng hàng điện tử, dược phẩm và nhiều lĩnh vực khác về gần mình hơn. Tập đoàn Apple (Hoa Kỳ) bắt đầu sản xuất các chiếc máy tính xách tách Macbook tại tiểu bang Texas nhưng trong một nhà máy thuộc sở hữu bởi Flex – một tập đoàn điện tử của Singapore từ năm 2012. Quá trình sản xuất vẫn sử dụng màn hình và chip nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nhật Bản. Trong khi đó, dòng chip mới M1 do Apple tự phát triển cho dòng Macbook mới được sản xuất bởi hãng TSMC (Đài Loan, Trung Quốc).
Hay các dòng xe hơi mang thương hiệu của các tập đoàn xe ô tô của Hoa Kỳ lại được sản xuất tại Mexico với các linh kiện được nhập khẩu từ Châu Á. Tại khu vực Châu Âu, kim ngạch nhập khẩu linh kiện điện tử từ Trung Quốc và nhập khẩu quần áo từ Việt Nam cũng đang ngày càng cao hơn. Các tranh cãi về quy mô toàn cầu hoá được xem là điều “ngớ ngẩn” bởi chưa có bất kỳ thước đo nào về sức ảnh hưởng của toàn cầu hoá lên hầu như mọi mặt đời sống hàng ngày của chúng ta.
Kinh tế hướng Đông
Và đừng quên, mặt trái của chính sách công nghiệp là thúc đẩy xuất khẩu. Việc Liên minh Châu Âu (EU) vừa qua đạt được hàng loạt thoả thuận tương mại tự do (FTA) với Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Việt Nam đang mở đường cho hàng hoá Châu Âu vài khu vực Châu Á. Đặc biệt, các FTA của EU với Singapore và Việt Nam sẽ đặt nền móng cho một thoả thuận thương mại giữa EU với khối ASEAN. Anh cũng đã đạt một FTA với Nhật Bản trong năm 2020. Phần lớn các quốc gia thành viên EU nhận ra họ cần áp dụng hô hình thúc đẩy xuất khẩu của Đức để có thể tạo ra thêm việc làm, qua đó, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Sự khẩn trương của EU trong việc hoàn tất Thỏa thuận Đầu tư Toàn diện với Trung Quốc cho thấy tham vọng tiến vào khu vực Châu Á của Châu Âu so với Hoa Kỳ. Không chỉ vì kinh tế EU phụ thuộc vào thương mại với Châu Á nhiều hơn so với Hoa Kỳ mà còn do gánh nặng hưu trí tại Châu Âu còn lớn hơn, cấp thiết hơn nhiều so với Hoa Kỳ. Do đó, Châu Âu không thể loại bỏ mối ràng buộc của họ với Trung Quốc.
Trong mọi trường hợp, bao gồm cả các xung đột giữa EU và Trung Quốc, Thủ tướng Đức Angela Markel vẫn tin vào câu thần chú "Wandel durch Handel" (Thương mại mang tới sự thay đổi).
Thương mại hàng hoá giữa Châu Âu và Châu Á, trong đó bao gồm Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản và Ấn Độ, đang ở mức 1.600 tỷ USD mỗi năm. Con số này lớn hơn nhiều so với kim ngạch thương mại giữa khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu. Đây cũng là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy sự dịch chuyển trọng tâm kinh tế toàn cầu sang phương Đông.
Điều này cũng góp phần hình thành một chỉ dẫn mới, rõ ràng với giới chức lãnh đạo Hoa Kỳ trong thời gian tới: Hợp tác với Châu Á hoặc mất nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ hơn vào họ!
Hiểu đúng về châu Á
Hợp tác thương mại theo khu vực ghi nhận những kết quả ấn tượng trong hơn một thập kỷ qua. Tại khu vực Bắc Mỹ, thương mại USMCA đã đạt được vào năm 2019, và quy mô thương mại giữa Hoa Kỳ - Canada và giữa Hoa Kỳ - Mexico tăng mạnh, vượt 600 tỷ USD trong năm 2019. Con số này tương đương quy mô thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Khi nền kinh tế Hoa Kỳ và Trung Quốc đang trong quá trình phân tách thì thương mại nội khối giữa các quốc gia Bắc Mỹ sẽ chắc chắn còn tăng lên nữa.
Quy mô thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN hiện đã lớn hơn tổng quy mô thương mại giữa Trung Quốc – Hoa Kỳ và giữa Trung Quốc – Châu Âu, và điều này đang hỗ trợ các nền kinh tế Đông Nam Á phục hồi hậu đại dịch Covid-19.
Tồn tại mối quan hệ tích cực giữa các cấp độ khu vực và toàn cầu trong quan hệ thương mại. Trên thực tế, sự hợp tác trong khu vực góp phần củng cố quá trình toàn cầu hoá giống như việc các cơ quan ngoại giao khu vực đóng vai trò quan trọng trong “bộ máy chính phủ toàn cầu”.
Tại Châu Á, sự phân chia công việc từ lâu giữa 5 nền kinh tế xuất khẩu chính của khu vực Đông Á là Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc), Nhật Bản và Hàn Quốc đã góp phần hình thành nên mức tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 4.000 tỷ USD. Con số này tương đương tổng kim ngạch của Hoa Kỳ và EU cộng lại. Không một quốc gia nào trong 5 nước kể trên đứng riêng rẽ, khi các nước này hình thành các chuỗi liên kết đã góp phần biến Châu Á thành “công xưởng” của thế giới.
Với việc hiệp định RCEP được ký, bao phủ tới 1/3 dân số cũng như GDP toàn cầu, Châu Á đang thẳng tiến trở thành khu vực sở hữu hệ thống sản xuất kết nối đa phương đa dạng, đặc biệt là với các trung tâm sản xuất có chi phí thấp tại khu vực Đông Nam Á.
Tăng trưởng thương mại và tự do hóa đầu tư là những yếu tố giúp các quốc gia như Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu với dòng vốn từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và Châu Âu đổ vào đây. Có thể nhận định người chiến thắng trong cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc chính là Việt Nam.
Các lĩnh vực công nghệ và sản xuất của Ấn Độ cũng ghi nhận những tín hiệu tích cực khi các chuỗi cung ứng mở rộng ra khỏi Trung Quốc. Apple và Samsung Electronics dẫn đầu làn sóng các công ty điện tử đầu tư vào Ấn Độ. Hãng Tata Consultancy Services (Ấn Độ) đã vượt qua Accenture (Ireland) trở thành công ty dịch vụ công nghệ thông tin có giá trị lớn nhất thế giới. Hãng này đang tăng cường tuyển dụng để đáp ứng nhu cầu xây dựng một "khung xương sống” số hóa vững mạnh khi các công ty đang đẩy mạnh chuyển đổi số.
Hiện Ấn Độ chưa chính thức tham gia hiệp định RCEP nhưng chính sách “Hướng Đông” của nước này là hướng đến việc giảm thâm hụt thương mại với Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Hiện tập đoàn sản xuất thép Sippon Steel (Nhật Bản) và Arcelor Mittal (Ấn Độ) hướng tới một mối quan hệ hợp tác sâu hơn nhằm gia tăng sức cạnh tranh đối với các đối thủ tại Trung Quốc.
Chính quyền Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có thể tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho dù sẽ có rất nhiều những khó khăn cản đường như các quan điểm bảo thủ của Đảng Dân chủ và những hạn chế của hiệp đình nay trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, đã từ lâu, các doanh nghiệp Hoa Kỳ ý thức được thực trạng và sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động sản xuất tại Châu Á để cảnh tranh với hàng hoá Trung Quốc, Châu Âu cũng như chính các doanh nghiệp Hoa Kỳ khác. Vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào ASEAN hiện đang cao hơn so với tổng mức đầu tư của Hoa Kỳ vào Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ. Và khoảng cách này sẽ ngày càng nới rộng hơn nữa một khi Hoa Kỳ tái gia nhập CPTPP.
Một số nhà phân tích cho rằng đây chính là chiến lược “Trung Quốc +1”, đưa một quốc gia khác nữa, ngoài Trung Quốc, trở thành cứ điểm sản xuất tại Châu Á. Hiểu đơn giản hơn là các công ty đa quốc gia nên áp dụng phương châm “Sản xuất tại nơi mà bạn bán hàng”.
Chất lượng hơn số lượng
Thế kỷ 21 là lần đầu tiên trong lịch sử loài người, mỗi châu lục hoặc khu vực có một cực quyền lực độc lập riêng của mình. Hệ thống toàn cầu này phức tạp và lớn hơn nhiều so với bất kỳ cực quyền lực đơn lẻ nào. Trong mạng lưới quan hệ nhằng nhịt giữa các cực quyền lực này, không một quyền lực nào có thể áp đặt chi phối toàn thế giới. Thời kỳ địa chính trị mới thể hiện một giai đoạn toàn cầu hoá mới có tính cạnh tranh cao hơn giai đoạn trước bất kể quy mô thương mại hoặc đầu tư.
Điều mà tất cả các cường quốc, cực quyền lực nên đồng ý là chúng ta cần tìm kiếm một quá trình toàn cầu hoá tiến bộ hơn là vì lợi ích của chính chúng ta, gồm gia tăng thu nhập, giảm bất bình đẳng và bao trùm lợi ích của tất cả mọi người.