Kiểm
tra chuyên ngành cần cải thiện nhiều
Sáng nay 13/6/2018, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Dự án quản trị nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện của Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID GIG) đã tổ chức Hội thảo: “Thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý, kiểm tra đối với hàng hóa xuất nhập khẩu”.
Thông tin mới nhất từ Hội thảo cho biết, trong 4 năm liên tiếp từ 2014 - 2017, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 19 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Một trong những nội dung trọng tâm, xuyên suốt là vấn đề thủ tục hải quan, cải cách toàn diện các quy định quản lý và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, nhằm cải thiện chỉ số Thương mại qua biên giới của Việt Nam.
Thủ tục hải quan, kiểm tra chuyên ngành vẫn làm khó doanh nghiệpÔng Phạm Thanh Bình, Chuyên gia dự án GIG nhận định, thông qua việc thực hiện các Nghị quyết 19, nhiều vấn đề được giao cho các Bộ, ngành đã có sự chuyển biến tích cực. Điển hình như mục tiêu giảm thời gian thông quan hàng hóa còn 70 giờ đối với hàng xuất khẩu và 90 giờ với hàng nhập khẩu cơ bản đạt được, trừ thời gian thực hiện thủ tục kiểm dịch động vật.
Đồng thời, cơ chế hải quan một cửa quốc gia, kết nối Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) và các Bộ cơ bản hoàn thành và đi vào sử dụng. Bên cạnh đó, một số thủ tục hải quan đã được giải quyết như: thủ tục xét miễn thuế đã được bãi bỏ, thủ tục xác nhận hàng hoá qua khu vực giám sát hải quan đã được điện tử hoá...
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế, ông Bình chỉ rõ, thủ tục hải quan và quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn còn nhiều vấn đề cần được cải thiện. Cụ thể, việc vận hành cơ chế hải quan một cửa quốc gia, kết nối Tổng cục Hải quan với các Bộ ngành chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng. Trong đó, số thủ tục thực hiện qua cơ chế một cửa quốc gia còn rất nhỏ so với tổng số các thủ tục mà doanh nghiệp đang phải thực hiện. Đa số các cơ quan, đơn vị đều mới áp dụng điện tử một phần, vừa thực hiện thủ tục điện tử, vừa yêu cầu phải nộp hồ sơ giấy.
“Mặc dù ngành Hải quan đã có quy định chính thức việc áp dụng phương thức quản lý rủi ro trong quản lý, nhưng các quyết định phân luồng, phân loại vẫn chưa đảm bảo chính xác, làm cho doanh nghiệp phân vân về tính khách quan của các quyết định. Cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro phân tán, dữ liệu lạc hậu, không chính xác. Đặc biệt, có những lĩnh vực dường như không áp dụng quản lý rủi ro...”, ông Bình nhận định.
Vẫn vướng mắc về xác định giá trị
Đánh giá việc cải cách thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tác động như nào đến doanh nghiệp, ông Bình cho rằng, đây là vấn đề lớn nhất, gây nhiều phản ứng, bức xúc của doanh nghiệp đối với ngành hải quan.
Cụ thể, chuyên gia GIG chỉ ra nhiều thủ tục hải quan và quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn như số thủ tục thực hiện qua cơ chế một cửa quốc gia còn rất nhỏ so với tổng số các thủ tục mà doanh nghiệp đang phải thực hiện. Đa số các cơ quan, đơn vị đều mới áp dụng điện tử một phần, vừa thực hiện thủ tục điện tử, vừa yêu cầu phải nộp hồ sơ giấy.
Đáng chú ý, các cơ quan chức năng hiện chưa giải quyết căn bản vướng mắc về xác định giá trị, tham vấn xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. "Đây là vấn đề lớn nhất, gây nhiều phản ứng, bức xúc nhất của doanh nghiệp đối với hải quan”, chuyên gia GIG nhấn mạnh.
Bình luận về ý kiến của ông Phạm Văn Bình, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM chia sẻ, khi áp dụng luật phải tìm ra cơ sở pháp lý, bởi nguyên tắc cơ quan Nhà nước chỉ làm những gì luật cho phép. Do đó, khi gặp những vướng mắc, doanh nghiệp và chuyên gia phải tìm kỹ ở các quy định, lấy đó làm cơ sở trao đổi, đấu tranh đến cùng.
Do đó, để đảm bảo việc triển khai thực hiện Nghị quyết 19 trong những năm tiếp theo đạt được hiệu quả cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, cần tạo sự chuyển đổi mãnh mẽ về cách thức quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn liền với nguyên tắc quản lý rủi ro, đánh giá đúng mức độ tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, tổ chức.
Theo đó, phải xóa bỏ căn bản tình trạng một mặt hàng chịu sự quản lý, kiểm tra chuyên ngành của nhiều cơ quan. Đồng thời phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát hàng hóa; nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống một cửa quốc gia, đảm bảo kết nối thông tin thống nhất giữa các cơ quan quản lý, đơn vị kiểm tra chuyên ngành và các đơn vị liên quan.
Thêm vào đó, cần thống nhất cách hiểu và thực hiện các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra chuyên ngành giữa các cấp, các địa phương và từng cá nhân thực thi, đảm bảo công bằng và thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển, ông Cung khẳng định.