Thực hiện Luật 71 VAT về phân bón: Khó cho doanh nghiệp

Đối mặt với tình trạng thua lỗ, lao động bỏ việc, tăng giá thành sản phẩm khiến hoạt động sản xuất gặp khó khăn... là những vấn đề nổi cộm của các doanh nghiệp sản xuất phân bón Việt Nam được nhắc đến

Theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Luật số 71/2014/QH13, nếu không sửa đổi, thì việc giảm thuế GTGT cho sản phẩm phân bón từ 5% xuống bằng không (0) chỉ là hình thức thực tế người nông dân vẫn không được hưởng lợi gì, thậm chí phải gánh chịu giá phân bón tăng bình quân từ 7,1% - 7,5% vì doanh nghiệp phải cộng thuế VAT các mặt hàng đầu vào vào giá thành sản phẩm. Đó là vấn đề nổi cộm, kể từ khi Luật số 71/2014/QH13 có hiệu lực pháp luật vào ngày 1/1/2015.

Tại cuộc họp giao ban quý I/2015, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có kiến nghị: Căn cứ quy định tại Điều 3 Luật số 71/2014/QH13, từ ngày 1/1/2015, các mặt hàng: Phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT từ khâu nhập khẩu đến khâu sản xuất, thương mại bán ra. Thực hiện Luật thuế này, giá thành các sản phẩm phân bón sản xuất trong nước như Ure, DAP, phân supe lân và lân nung chảy tăng rất mạnh (tăng 6-8% giá thành) do không được khấu trừ thuế VAT đầu vào, trong khi phải cạnh tranh với phân bón nhập khẩu không phải chịu thuế. Để giải quyết những vấn đề trên, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đề nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng để trình Quốc Hội thông qua: Đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất là 0%.

Tăng chi phí sản xuất - tăng giá thành

Theo ông Hoàng Văn Tại - Tổng giám đốc Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển, ngoài ảnh hưởng về tài chính, còn vấn đề khác nữa là: Nếu nhập khẩu phân NPK thì sẽ phải chịu thuế. Trong khi đó, phân NK, NP, KP khi nhập khẩu vào nước ta thì không phải chịu thuế. Sau khi nhập khẩu về sẽ được sang bao và trộn thành phân NPK, đây là một hình thức lách luật, khiến giá thành cạnh tranh với NPK trong nước.

Tính toán sơ bộ, khi doanh nghiệp mua thiết bị hàng hóa, nguyên vật liệu (điện, than, khí) và các dịch vụ khác để sản xuất phân bón sẽ không được khấu trừ mà phải tính đưa vào chi phí giá thành sản xuất, làm giá thành phân bón tăng lên, giảm sức cạnh tranh với phân bón nhập khẩu. Nông dân sẽ phải mua phân bón giá cao hơn, vì phải chịu cộng thuế VAT đầu vào. Cụ thể, khi thực hiện luật 71/2014/QH13 thì giá thành phân đạm tăng 7,2%- 7,6%; phân DAP tăng 7,3%- 7,8 %, phân supe lân tăng 6,5%- 6,8%; phân NPK và hữu cơ tăng từ 5,2%-6,1%.

Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao cho biết, việc chuyển mặt hàng phân bón sang thuộc diện không chịu thuế GTGT đã làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Theo ước tính, nếu không khấu trừ VAT sẽ tăng chi phí sản xuất năm 2015 của Công ty lên 100 tỷ đồng. Còn những doanh nghiệp mới như DAP Hải Phòng, Phân đạm Ninh Bình chi phí còn cao hơn rất nhiều.

Đại diện Công ty DAP Hải Phòng bày tỏ, tháng 9/2014, khi xây dựng kế hoạch cho năm 2015, ước tính Công ty có thể lãi 70 tỷ đồng, nhưng khi áp dụng Luật này thì có thể lỗ 153 tỷ đồng. Công ty đã cố gắng tiết giảm chi phí, nhưng cũng chỉ được khoảng 20 tỷ đồng, vậy còn lại 130 tỷ đồng, đương nhiên công nhân không có lương. Từ đầu năm đến nay, đã có khoảng 20 công nhân xin nghỉ việc.

Ông Nguyễn Đức Ninh - Phó Tổng giám đốc Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc cho biết, thuế nguyên liệu đầu vào của Công ty thấp nhất là 10%, có nhiều thứ chi phí khác còn cao hơn. Trường hợp lượng urê sản xuất đạt công suất 500.000 tấn/năm, chi phí đầu vào chịu thuế GTGT hết khoảng 2.500 tỷ đồng, thuế GTGT đầu vào sẽ là 250 tỷ đồng, tương ứng làm tăng chi phí khoảng 500 đồng/kg sản phẩm đạm urê. Vì vậy, năm 2015, Công ty đã buộc phải tính đến phương án giảm tiền lương của người lao động.

Doanh nghiệp thua lỗ - Nông dân thiệt

Đại diện Công ty CP Tổng công ty Sông Gianh bày tỏ, sự thay đổi của chính sách thuế lần này đã khiến Công ty của ông gặp khó. Vì sản xuất phân bón hữu cơ, nguyên liệu chính là than bùn và quặng có thuế suất 5%, các chi phí khác có thuế suất 10%, đó là chưa tính tới thuế GTGT việc hàng năm công ty mua sắm thêm các tài sản máy móc khác để thay thế. Công ty đã cố gắng giảm tất cả chi phí đầu tư, giảm giá bán cho nông dân. Thuế GTGT đầu vào đầu ra chênh nhau khoảng 1%. Lợi nhuận thu được chưa tới 1% tỷ suất lợi nhuận. Như vậy, nếu thực hiện theo Luật 71, đồng nghĩa giá thành sản phẩm phân bón vi sinh, phân bón hữu cơ sẽ tăng lên, sản phẩm sẽ tăng giá khoảng 6% và nếu không điều chỉnh giá thì Công ty sẽ lỗ. Ngoài ra, Công ty đang đầu tư hai dự án với tổng vốn trên 100 tỷ đồng và thuế đầu vào của hai dự án này trên 10 tỷ đồng. Nếu không được khấu trừ thì phải phân bổ vào giá thành sản phẩm.

Trước những ý kiến từ phía doanh nghiệp, ông Phạm Đình Thi - Vụ Trưởng Vụ chính sách Thuế Bộ Tài chính cho biết, ông đã ghi nhận đầy đủ ý kiến của doanh nghiệp về những bất lợi khi thay đổi chính sách thuế. Tuy nhiên, ông Thi cho rằng giá cả là do thị trường quyết định chứ không thể nói không được khấu trừ thuế thì đẩy vào giá cho nông dân. Chính vì thế Bộ Tài chính sẽ lắng nghe ý kiến, tổng hợp trình lên các cấp có thẩm quyền để đánh giá tác động và có những sửa đổi phù hợp.

Nhận định nói trên của ông Phạm Đình Thi không phải là không có lí, nhưng vẫn có phần chưa đầy đủ. Mặc dù giá cả là do thị trường điều tiết, nhưng không thể nói chính sách thuế không có tác động đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như với cơ cấu giá thành sản phẩm. Mọi ý kiến đều thể hiện rất rõ, nếu không được khấu trừ thuế GTGT, doanh nghiệp buộc phải đối mặt với những lựa chọn rất khó khăn: Giảm chi phí sản xuất, cắt giảm lương… để giữ giá thành sản phẩm; hoặc doanh nghiệp sẽ phải chịu lỗ để cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu; hoặc doanh nghiệp phải tăng giá cả đầu vào, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm đầu ra và không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu cùng loại. Như vậy, doanh nghiệp trong nước đứng trước nguy cơ bị thua ngay chính trên “sân nhà”… Mong rằng các chuyên gia, các cấp, các ngành xem xét một cách thận trọng tác động của Luật số 71/2014/QH13 đối với doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước, giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh.