1. Tài nguyên đất:
Kết quả phân hạng đất cho thấy đất ở Lạng Sơn rất thích hợp cho việc phát triển một số loại cây trồng dài ngày có giá trị kinh tế cao, trong đó có 143.000 ha đất thích hợp với cây hồi; Với cây chè, cà phê: khoảng 52.600 ha, trong đó loại đất thích hợp là 7.500 ha; Với các loại cây ăn quả (na, hồng, quýt, mơ, mận…), đất thích hợp là 52.100 ha, trong đó đất rất thích hợp là: 9.500 ha.
2. Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt chủ yếu thuộc các công trình thuỷ lợi (hồ, đập, trạm bơm) và hệ thống các sông, suối được khai thác phục vụ sản xuất nông nghiệp và tạo nguồn cho công trình cấp nước sinh hoạt. Nước phục vụ sản xuất công nghiệp đáng kể là công trình cấp nước cho mỏ than Na Dương và Nhà máy Nhiệt điện Na Dương lấy từ Hồ Nà Cáy - Huyện Lộc Bình. Nguồn nước ngầm được các tổ chức, cá nhân khai thác, trong đó có 13 tổ chức đang khai thác, sử dụng tập trung ở địa bàn thành phố Lạng Sơn, các thị trấn huyện; Nước ngầm được khai thác chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt, một số ít phục vụ cho sản xuất.
3. Tài nguyên rừng:
Tính đến năm 2004 toàn Tỉnh có 336.131 ha đất lâm nghiệp. Trong 5 năm, Lạng Sơn đã trồng được hơn 57.155 ha rừng (mục tiêu 70.000 ha), rừng khoanh nuôi tái sinh 87.507 ha, rừng phòng hộ 153.594 ha, độ che phủ rừng là 41,68% (năm 2005).
4. Tài nguyên khoáng sản:
Theo các số liệu điều tra địa chất cho thấy: tài nguyên khoáng sản trên địa bàn Lạng Sơn không nhiều, trữ lượng các mỏ nhỏ nhưng khá phong phú, đa dạng về chủng loại nên rất thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp với quy mô nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh. Các loại khoáng sản chủ yếu như: Than nâu ở Na Dương (Lộc Bình), trữ lượng khoảng 96,6 triệu; Than bùn ở Bình Gia, trữ lượng khoảng 100 ngàn tấn; Phốt pho rit ở Hữu Lũng, trữ lượng khoảng 73 ngàn tấn; Bô xít ở Văn Lãng, Cao Lộc, trữ lượng khoảng 20 triệu tấn; Vàng ở Tân Văn, Văn Mịch (Bình Gia), vùng Bản Trại, Đào Viên (Tràng Định), chủ yếu là vàng sa khoáng; Thạch anh ở vùng Mẫu Sơn (Lộc Bình) trữ lượng khoảng 2 triệu tấn; Mỏ sét ở Lộc Bình trữ lượng khoảng 22,5 triệu tấn; Mỏ sắt ở Chi Lăng trữ lượng khoảng 2 triệu tấn; Nước khoáng tự nhiên ở Tràng Định, được đánh giá đạt tiêu chuẩn về vệ sinh, có thể dùng làm nước giải khát. Ngoài ra, Lạng Sơn còn có một số loại khoáng sản khác như: Man gan, đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân, thiếc và đá vôi, cát, cuội, sỏi có ở hầu hết các nơi trong Tỉnh với trữ lượng lớn và đang được khai thác sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng.
5. Tiềm năng công nghiệp chế biến:
Với mục tiêu từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, ngành nông nghiệp đã tham mưu cho Tỉnh ban hành các cơ chế, chính sách để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Trong những năm gần đây, người nông dân đã đầu tư đáng kể vào sản xuất các loại cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả phù hợp với điều kiện đất đai, điều kiện tự nhiên của từng vùng. Trong nhóm cây đặc sản của Lạng Sơn, cây hồi có vị trí quan trọng nhất. Tính đến năm 2004, diện tích hồi của toàn tỉnh đạt khoảng 30 nghìn ha, được trồng tập trung ở các huyện Văn Quan, Bình Gia, Cao Lộc, Văn Lãng, Tràng Định. Lạng Sơn còn có 52,1 nghìn ha đất thích hợp các loại cây ăn quả dài ngày có giá trị kinh tế cao như : Quýt, na, hồng, đào, vải… Với diện tích gần 4.500 ha, huyện Hữu Lũng và Chi Lăng đang trở thành vùng vải thiều lớn nhất của Tỉnh. Ngoài ra, Lạng Sơn đang hình thành vùng nguyên liệu thuốc lá Bắc Sơn 3.500 – 4.000 ha, vùng chè Đình Lập trên 700 ha, vùng thông Lộc Bình, Đình Lập, Chi Lăng, Cao Lộc 64.000 ha.