Báo cáo kết quả thanh tra các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và một số địa phương từ năm 1995 đến năm 2004, cho thấy, tình hình vi phạm pháp luật lao động diễn ra chủ yếu từ phía người sử dụng lao động và người lao động.
TS. Bùi Sỹ Lợi – Chánh Thanh tra Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phân tích: Về phía người sử dụng lao động, để nâng cao năng lực cạnh tranh, họ đã tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành bằng cách lẩn tránh việc thực hiện các chế độ, nghĩa vụ đối với người lao động, áp đặt các biện pháp quản lý không phù hợp với pháp luật lao động Việt Nam, như: Ký kết hợp đồng lao động không đúng loại như ký kết HĐLĐ ngắn hạn, thời vụ để làm công việc thường xuyên ổn định; Không tham gia BHXH bắt buộc, đầy đủ cho người lao động, đóng BHXH ở mức lương thấp (lương tối thiểu); Không trả lương làm thêm giờ, phép năm; không thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn vệ sinh lao động... Điều này đã vi phạm các quy định của pháp luật lao động, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Về phía người lao động: Do sức ép về việc làm nên người lao động vẫn ký kết với người sử dụng lao động loại hợp đồng có thời hạn xác định mặc dù công việc đảm nhận mang tính chất thường xuyên, ổn định lâu dài. Đồng thời, nội dung trong bản hợp đồng lao động chưa quy định cụ thể quyền lợi của người lao động, nhưng người lao động vẫn cho rằng đó là điều “có thể chấp nhận được”. Người lao động không từ chối khi bị người sử dụng lao động điều chuyển sang làm việc khác trái nghề với thời gian dài hơn so với quy định của Luật Lao động, thậm chí chuyển hẳn sang việc khác mà hai bên không thương lượng và ký kết hợp đồng lao động mới.
Bản thân một số người lao động cũng không muốn tham gia bảo hiểm xã hội để hàng tháng nhận được một khoản thu nhập lớn hơn so với phải tham gia bảo hiểm xã hội. Nhiều trường hợp người lao động đã được trang bị bảo hộ lao động đầy đủ, nhưng vẫn không sử dụng bảo hộ lao động vì cảm thấy vướng víu, bất tiện. Hầu hết người lao động làm các công việc nguy hiểm, độc hại không muốn được bồi dưỡng bằng hiện vật mà chỉ muốn được cấp bằng tiền. Vì vậy, ở mức độ nào đó, người lao động cũng đã tự nguyện vi phạm Luật Lao động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các vi phạm, nhưng có thể chia thành 5 nhóm nguyên nhân thuộc các đại diện của các bên như sau: Về phía người sử dụng lao động: Do muốn thu được lợi nhuận càng nhiều càng tốt, kể cả nếu phải vi phạm pháp luật và xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của người lao động, nhiều chủ doanh nghiệp đã cố tình trốn tránh các nghĩa vụ, trách nhiệm đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên, cũng có một số ít doanh nghiệp do gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc hiểu biết pháp luật lao động còn hạn chế, dẫn đến hiện tượng xem nhự pháp luật lao động của nước sở tại. Ngoài ra, còn có nguyên nhân người sử dụng lao động chưa hiểu nhiều về văn hóa, phong tục, tập quán của người Việt Nam, còn hiện tượng coi rẻ lao động Việt Nam.
Về phía người lao động: Nhận thức cũng như hiểu biết pháp luật của người lao động còn nhiều hạn chế, do không được đào tạo nghề nghiệp cũng như học tập, nghiên cứu pháp luật lao động trước khi vào làm việc. Chưa có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao, trình độ tay nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của một nền công nghiệp hiện đại. Mặt khác, đời sống của người lao động có nhiều khó khăn, nên họ cần việc làm bằng mọi giá, kể cả điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đe doạ đến sức khoẻ và tính mạng của mình, chấp nhận cả mức thù lao thấp, không tương xứng với sức lao động mà họ bỏ ra.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc quản lý các doanh nghiệp chưa tốt. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên, nhưng nhiều khi lại chồng chéo, chất lượng, hiệu quả, hiệu lực các cuộc thanh tra chưa cao. Xử lý các vi phạm pháp luật của doanh nghiệp chưa nghiêm, chế tài xử lý chưa đủ mạnh. Một số nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp thực tế, chưa thống nhất, chồng chéo và thay đổi nhiều. Một số địa phương (cấp tỉnh) muốn có thu hút đầu tư nước ngoài, nên đôi khi rất nương nhẹ hoặc lờ đi các vi phạm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về phía Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Công tác huấn luyện, tuyên truyền, tư vấn cho chủ doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầu tư nghiên cứu những khó khăn của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh để có những ý kiến đóng góp với doanh nghiệp cũng như những đề xuất với Nhà nước. Là cơ quan mang tính hiệp hội, nhưng chưa thường xuyên tập hợp các doanh nghiệp để trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý...
Về phía Công đoàn: Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là rất hạn chế do hầu hết là hoạt động kiêm nhiệm, thực chất các thành viên trong ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc lâm thời đều là những người lao động trong doanh nghiệp và hưởng lương từ người sử dụng lao động. Mặt khác, Công đoàn cũng chưa có một mô hình mới về tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với loại hình doanh nghiệp này. Công đoàn địa phương chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến việc vận động thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp.
Trên cơ sở kết quả thanh tra để phân tích, đánh giá, xác định nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp luật chủ yếu, có 4 nhóm hệ thống giải pháp cơ bản (áp dụng cho các đối tượng và cơ quan có quan hệ trực tiếp) như sau:
Đối với người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động cần được học tập, nghiên cứu về pháp luật lao động Việt Nam trước khi được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời phải cam kết thực hiện pháp luật lao động đầy đủ kèm theo hồ sơ xin phép kinh doanh. Hàng năm, chủ doanh nghiệp phải có trách nhiệm mở hội nghị tập huấn về pháp luật lao động cho cán bộ quản lý của doanh nghiệp và xây dựng nội quy lao động đầy đủ, chi tiết, không trái luật định và phải đăng ký với cơ quan lao động địa phương. Hợp đồng tư vấn pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng. Cập nhật đầy đủ các văn bản thông tin, kịp thời về các lĩnh vực có liên quan đến quan hệ lao động. Trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề với nhau với cơ quan quản lý nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
Đối với người lao động: Trước khi vào làm việc, người lao động phải được học tập về pháp luật lao động. Đối với số lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, cần được cập nhật các thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí, đài phát thanh, tờ rơi, gọi điện thoại đến cơ quan lao động địa phương để thông báo việc vi phạm pháp luật lao động của chủ doanh nghiệp. Được tư vấn pháp luật miễn phí. Mở hộp thư góp ý tại các doanh nghiệp hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Tăng cường vai trò thương lượng trao đổi với Ban Chấp hành công đoàn cơ sở, nhằm làm rõ các ý kiến bất đồng mang tính tiềm ẩn có nguy cơ đình công, lãn công, gạt bỏ những hiểu nhầm giữa người lao động và Công đoàn với chủ doanh nghiệp, từ đó hiểu biết nhau hơn, hiệu quả công việc tốt hơn và có lợi cho các bên có liên quan.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Trong những năm gần đây, công tác ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đã được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục tình trạng văn bản ban hành không phù hợp với thực tiễn, nhiều nội dung trùng lắp, dẫn đến khó khăn khi thực hiện, do hiểu không giống nhau hoặc hướng dẫn văn bản mang tính chung chung, thiếu cụ thể, có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Các văn bản hướng dẫn dưới luật chưa kịp thời, luật đã ban hành có hiệu lực, nhưng văn bản hướng dẫn luật quá chậm là tình trạng khá phổ biến hiện nay. Những vấn đề bức xúc phải được xem xét và có giải pháp điều chỉnh, sửa đổi kịp thời cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện về cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp phát triển.
Về công tác tuyên truyền, phố biến pháp luật: Để Luật Lao động đến được với mọi người lao động, các cơ quan Nhà nước phải tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, để người lao động hiểu và thực hiện.
Về công tác đào tạo, huấn luyện và tập huấn pháp luật lao động: Định hướng cho xã hội về việc làm, hiểu đúng về việc làm và có kế hoạch tập trung đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Khi tham gia quan hệ lao động, người sử dụng lao động và người lao động cần phải được huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động đầy đủ, đưa chương trình đào tạo pháp luật lao động vào các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học.
Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở Trung ương và địa phương: Từ khi có Bộ Luật Lao động, các quan hệ lao động từng bước được điều chỉnh phù hợp nên đã thu hút được các nhà đầu tư. Mặt khác, đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động phải tăng cường chức năng nhiệm vụ trong quản lý, chỉ đạo.
Cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở trung ương thực hiện chức năng nghiên cứu, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách trên cơ sở qui định của pháp luật, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các qui định đó và phát hiện những nội dung của văn bản chưa phù hợp với thực tế để kiến nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời. Cơ quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn các doanh nghiệp trên địa bàn thực hiện các văn bản được ban hành và cũng thực hiện trách nhiệm báo cáo cấp trên về tình hình thực hiện các văn bản đó. Để làm tốt điều này, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, thanh tra viên lao động; Hoàn thiện tổ chức bộ máy thanh tra các cấp, kể cả cấp quận, nếu ở đó có số lượng doanh nghiệp lớn; Có biện pháp thông tin hướng dẫn, nhằm giúp các doanh nghiệp về thanh tra viên, đặc biệt là chất lượng khi tuyển dụng; Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng và áp dụng các biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật lao động, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cuộc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các qui định của pháp luật lao động.