Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam: Nhìn lại một năm vượt khó

Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con từ ngày 1/1/2006. Trong năm qua, hoạt động sản xuất - kinh doanh của Tổng Công ty đã gặp một số khó khăn khách quan như:

Năm 2006, điểm nổi bật là sản lượng tiêu thụ thuốc lá Vinataba đạt 336 triệu bao, là sản phẩm dẫn đầu trên thị trường thuốc lá Việt Nam, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2005. Đây là mức tăng trưởng khả quan trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Tiếp theo 2 giải thưởng “Cúp vàng thương hiệu 2005” và “Sao vàng đất Việt 2005”, nhãn hiệu Vinataba của Tổng công ty được bình chọn là “Nhãn hiệu nổi tiếng quốc gia 2006” của Việt Nam. Tại thị trường phía Bắc, thuốc lá Vinataba vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, nhờ  củng cố hệ thống phân phối, thu gọn đầu mối, kiểm soát việc tiêu thụ của các đại lý, nên giá bán Vinataba ổn định và có hiệu quả. Chất lượng sản phẩm Vinataba tốt, ổn định, quy cách mẫu mã, bao bì luôn được cải tiến, tạo được hình ảnh thương hiệu đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên, tại thị trường phía Nam, Vinataba chưa có sự cải thiện về thị phần và sản lượng tiêu thụ, việc xây dựng hệ thống phân phối và tiếp thị sản phẩm vẫn còn hạn chế. Sản phẩm thuốc lá nhãn “Gold Seal” đỏ có chất lượng khá tốt, được thị trường đánh giá cao, đang được tiêu thụ tại thị trường một số tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ, sản lượng tiêu thụ đạt 1,7 triệu bao. Sản phẩm thuốc lá nhãn “Mild Seven” vẫn có sự tăng trưởng ổn định, bằng 152% so với cùng kỳ năm 2005.

So với năm 2005, năm 2006, cơ cấu sản phẩm của Tổng Công ty đã thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm cao cấp (28,5% so với 23%) và trung cấp (5,3% so với 4,7%), nguyên nhân là do chính sách thuế tiêu thu đặc biệt đã làm ảnh hưởng đến tiêu thụ thuốc lá phổ thông và xu hướng người hút chuyển sang sử dụng sản phẩm chất lượng cao và sức cạnh tranh của đa số sản phẩm truyền thống ở phân khúc phổ thông của Tổng Công ty  không được cải thiện và ngày càng có xu hướng yếu hơn so với sản phẩm cùng loại của các đơn vị khác.

Về sản xuất nguyên liệu: Các đơn vị thành viên đã trồng được 18.206 ha, tăng 52% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó, thuốc lá vàng sấy đạt 13.484 ha, thuốc lá Burley: 242 ha, thuốc lá nâu địa phương: 4.480 ha. Về thu mua: Các đơn vị đầu tư vùng trồng thu mua đạt 23.451 tấn nguyên liệu, trong đó, thuốc lá vàng sấy: 21.224 tấn, Burley: 433 tấn, thuốc lá nâu địa phương: 1.794 tấn; Sản lượng chế biến nguyên liệu đạt 44.869 tấn nguyên liệu các loại, bằng 114% so với cùng kỳ năm 2005

Về xuất khẩu: Năm 2006, xuất khẩu đã đạt kỷ lục với kim ngạch  49 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó, xuất khẩu thuốc lá điếu được 578 triệu bao, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2005, riêng thuốc lá nhãn “Era, Memory, Souvenir”... tăng 9% so với cùng kỳ năm 2005, chiếm tỷ trọng 17%.

Về khoa học-công nghệ: Năm 2006, Tổng Công ty đã thực hiện được 33 dự án, trong đó có 7 dự án nhóm B và 26 dự án nhóm C. Viện Kinh tế kỹ thuật thuốc lá đã thực hiện được 16 đề tài cấp Bộ, đã nghiệm thu 9 đề tài, trong đó có 8 đề tài đạt loại xuất sắc; Ngoài ra, Tổng Công ty  đang tiếp tục xây dựng chất lượng theo hệ thống ISO đối với các đơn vị thành viên còn lại.

Các sản phẩm khác: Năm 2006, nước uống Vinawa đạt sản lượng tiêu thụ 1,4 triệu lít, bằng 320% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó, mặt hàng nước uống chủ lực là bình 20 lít, chiếm 63% tổng sản lượng. Bao bì và chất lượng sản phẩm nước uống được người  tiêu dùng chấp nhận và đánh giá cao, được xem là loại nước uống cao cấp. Đặc biệt, Hội nghị APEC được tổ chức tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội vừa qua, sản phẩm nước uống Vinawa vinh dự được chọn là một trong số ít nước uống tinh khiết phục vụ Hội nghị; Sản lượng bánh kẹo đạt 16.860 tấn bánh kẹo các loại, bằng 90% so với cùng kỳ năm 2005. Mặc dù sản lượng có giảm, nhưng doanh số và lợi nhuận vẫn có sự tăng trưởng; Sản phẩm rượu vang Romantic vẫn tiếp tục được cải tiến mẫu mã, bao bì, tính chất uống của sản phẩm được điều chỉnh phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.   

Qua một năm hoạt động theo mô hình mới, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành và đặc biệt là Bộ Công nghiệp, cùng với sự nỗ lực của toàn thể CBCNV, nên Tổng Công ty vẫn đạt được những kết quả nhất định, tạo được chuyển biến tốt trong phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh. Sản phẩm thuốc lá Vinataba và xuất khẩu vẫn ở mức tăng trưởng cao, cơ cấu sản phẩm thuốc lá nội địa tiếp tục chuyển biến tích cực, hình ảnh và thương hiệu Vinataba ngày càng được củng cố và phát triển, hình thành được mối liên kết chặt chẽ, hài hòa lợi ích theo mô hình tổ chức hoạt động công ty mẹ- công ty con, hoạt động kinh doanh đa ngành bước đầu được mở rộng, thu nhập và đời sống người lao động không ngừng được nâng cao.

Năm 2007, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của toàn Tổng Công ty phát triển và bền vững, Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam sẽ nỗ lực phấn đấu đạt các chỉ tiêu như sau: Giá trị SXCN đạt 7.030 tỷ đồng, doanh thu đạt 13.610 tỷ đồng, nộp ngân sách 2.830 tỷ đồng,  kim ngạch xuất khẩu: 56 triệu USD… Bên cạnh đó, Tổng Công ty tiếp tục phát triển và đa dạng hóa các mặt hàng công nghệ phẩm như: Bánh kẹo, nước uống Vinawa, rượu vang Romatic, tập trung phát triển các vùng nguyên liệu thuốc lá trọng điểm có chất lượng tốt... Với những định hướng phát triển như trên, chắc chắn Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam sẽ ngày càng gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong tiến trình hội nhập khinh tế khu vực và thế giới.
  • Tags: