Tổng thầu EPC - một mô hình kinh doanh khẳng định vị thế doanh nghiệp

Tổng thầu EPC là một mô hình kinh doanh mới xuất hiện ở nước ta khoảng 5 năm trở lại đây, nó đem lại cho quốc gia lợi ích rất lớn và đặc biệt giúp các doanh nghiệp trong nước có một tư duy mới, tầm nh

PV: Xin ông cho biết vì sao phải thực hiện mô hình tổng thầu EPC và quá trình thực hiện,  hiệu quả của mô hình này như thế nào?

TGĐ Phạm Hùng: Khái niệm Tổng thầu EPC (thiết kế, cung cấp thiết bị và xây lắp), hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khóa trao tay mới xuất hiện ở Việt Nam khoảng 5 năm trở lại đây. Lâu nay, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đóng vai trò thầu phụ cho các nhà đầu tư nước ngoài, nghĩa là chỉ làm phần C – phần xây lắp (thường chỉ chiếm tỷ trọng 15% của một dự án). Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn lên trở thành tập đoàn xây dựng mạnh, các tập đoàn công nghiệp nặng như Siemens, Misubishi, Hyundai...(là những lĩnh vực xương sống của một nền công nghiệp phát triển) thì không thể không thực hiện vai trò tổng thầu EPC, mặc dù đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm ở một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và thực tế ở Việt Nam những năm qua cho thấy, cơ chế tổng thầu EPC đã đem lại lợi ích rất lớn cho quốc gia.

Trước hết, cơ chế này tạo động lực ban đầu để hình thành những tập đoàn công nghiệp nặng về quản lý dự án, thiết kế kỹ thuật, công nghệ, tích lũy kinh nghiệm, năng lực quản lý tiến tới tham gia dự thầu các dự án trong và ngoài nước. Một nước được gọi là công nghiệp không thể thiếu những tập đoàn công nghiệp nặng như vậy. áp dụng cơ chế này cũng là một biện pháp để đầu tư cho ngành cơ khí chế tạo, bởi sau khi nhận được là tổng thầu, các doanh nghiệp mới có điều kiện để đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới các nhà máy cơ khí, nâng cao tỷ trọng nội địa hóa sản phẩm cơ khí, đồng thời phát huy tối đa nội lực, thu hút được lực lượng lao động lớn nhất, kể cả cán bộ, kỹ sư, công nhân. Hiện nay, một sự thật đáng buồn là chúng ta đưa một lực lượng lớn công nhân đi làm thuê cho các công ty, nhà máy ở các nước như Malaixia, Hàn Quốc, Đài Loan với đồng lương rất rẻ, song chúng ta lại bỏ ra hàng chục tỷ USD nhập khẩu lại chính các thiết bị do những nhà máy, công ty  đó sản xuất. Về lợi ích kinh tế, hiện Lilama đang đảm nhận vai trò tổng thầu EPC ở các dự án điện Uông Bí 1-2 (2x300 MW), Cà Mau 1-2 (2x750 MW), Xi măng Sông Thao, Đô Lương...với tổng giá trị lên tới 1,5 tỷ USD. Với vị thế này, giá trị sản xuất công nghiệp được tính là của ta, góp phần tăng trưởng GDP của cả nước. Mặt khác, phần lợi nhuận sinh ra là của phía Việt Nam chứ không chui vào túi nước ngoài như cách làm trước đây.

Một lợi ích nữa của tổng thầu EPC là tạo điều kiện để chúng ta dần làm quen với vị thế làm chủ, điều hành các nhà thầu phụ nước ngoài, làm thay đổi tư duy tự ti, phụ thuộc, làm thầu phụ cho nước ngoài vốn đã tồn tại rất lâu trong con người Việt Nam.

PV: Theo ông, để mô hình này hoạt động có hiệu quả, cần những giải pháp gì?

TGĐ Phạm Hùng: Mang lại lợi ích quốc gia lớn như vậy, song tổng thầu EPC là một chủ trương, cách làm mới, còn xa lạ với Việt Nam. Do vậy, cơ chế này cần sớm được thể chế hóa bằng các giải pháp và chính sách của Nhà nước. Đại hội X của Đảng đã xác định đến năm 2020, cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Có nhiều tiêu chí để đánh giá một nước công nghiệp phát triển, song có hai tiêu chí bắt buộc phải có, đó là: Đất nước phải có một ngành công nghiệp nặng phát triển được xây dựng trên nền tảng của các lĩnh vực công nghiệp luyện kim, luyện cán thép, cơ khí chế tạo máy, các dây chuyền thiết bị, đóng tàu, công nghiệp ôtô... sản phẩm cơ khí quốc nội phải đạt trên 50% và phải hình thành các tập đoàn công nghiệp thuộc các lĩnh vực công nghiệp trên. Để thực hiện được hai tiêu chí này, thì việc giao cho các doanh nghiệp trong nước làm tổng thầu EPC là giải pháp hiệu quả nhất, tạo được một động lực lớn để thúc đẩy ngành cơ khí chế tạo máy, các dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy thuộc các lĩnh vực nhiệt điện, thủy điện, xi măng..., thay vì hàng năm chúng ta phải bỏ tới 7 - 8 tỷ USD để nhập khẩu các thiết bị này. Để mô hình tổng thầu EPC hoạt động hiệu quả, Đảng và Chính phủ phải tạo được một tư duy nhất quán từ trên xuống dưới và giữa các bộ, ngành. Nếu không có được giải pháp này thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ rất chậm, nếu không nói là khó thực hiện, bởi hiện tại đang tồn tại nhiều tư duy khác nhau về phương hướng phát triển kinh tế đất nước. Có ý kiến cho rằng không nên phát triển công nghiệp nặng vì đầu tư tốn kém, thu hồi vốn chậm... mà chỉ nên phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ, công nghiệp nhẹ, công nghệ thông tin... Nhưng thử hỏi một đất nước không có công nghiệp nặng, không có các tập đoàn công nghiệp lớn thì nước đó có phải là nước công nghiệp không? Có thể nói ngành công nghiệp nặng là mảnh đất để các ngành khác phát triển. Phải có những dây chuyền sản xuất công nghệ, chế tạo... để chúng ta áp dụng các phần mềm thiết kế, chế tạo, quản lý dự án. Phải có những cỗ máy họat động để chúng ta tự động hóa nó và đưa hệ thống điều khiển vào sử dụng. Tóm lại, nhất quán về tư duy để tìm hướng phát triển công nghiệp đất nước là yếu tố vô cùng quan trọng.

PV: Ngoài các giải pháp trên, Nhà nước cần có những cơ chế gì để tạo sự thông thoáng cho các tổng thầu EPC, thưa ông?

TGĐ Phạm Hùng: Liên quan đến tổng thầu EPC trong nước thì cơ chế đấu thầu (hoặc Luật Đấu thầu) là chi phối nhiều nhất. Hiện tại, một bất cập đang tồn tại ở nước ta là: chúng ta xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước trên một nền tảng cơ sở vật chất nghèo nàn với những doanh nghiệp nhà nước có thể nói là ốm yếu, thiếu phương tiện, công nghệ, vốn... nhưng chúng ta lại “bê nguyên” các cơ chế đấu thầu của các nước tư bản, trong đó chủ đầu tư và nhà thầu hầu hết là tư nhân, trong khi ở nước ta phần lớn chủ đầu tư các dự án lớn là Nhà nước. Trong cơ chế thị  trường, việc đấu thầu, cạnh tranh là cần thiết để phát triển, nhưng tại thời điểm này, việc áp dụng “cứng nhắc” như vậy cần được khách quan xem xét lại. Một minh chứng rất đầy đủ và rõ ràng rằng, tất cả các dự án có nguồn vốn ODA của Nhật Bản được đầu tư ở nước ta (chưa nói đến trên nước Nhật), mặc dầu có tổ chức đấu thầu, song không một gói thầu nào lọt qua các nhà thầu Nhật Bản.

Qui trình thực hiện vai trò tổng thầu EPC đã trở thành thông lệ quốc tế, nên việc định giá sản phẩm hợp đồng EPC và thỏa thuận giá cả giữa chủ đầu tư với nhà tổng thầu là dựa trên nguyên tắc “thuận mua vừa bán”. Sau khi đáp ứng các yêu cầu về công nghệ, thiết bị, thông số kỹ thuật, chế độ vận hành, bảo hành...nhà thầu (người bán) có quyền quyết định giá sản phẩm (nhà máy trọn gói) của mình. Ngược lại, chủ đầu tư (người mua) sau khi xác định các yêu cầu về công nghệ, thương mại, giá cả được thì đồng ý mua. Bằng cách làm này, chúng ta mới xây dựng được một cơ chế giá cả đích thực theo cơ chế thị trường. Một nhà máy có hàng nghìn thiết bị và hàng triệu chi tiết, hàng trăm khối lượng cộng việc thì chủ đầu tư cũng như cơ quan giám sát, kiểm tra không thể bắt nhà tổng thầu kê khai ra được. Mặt khác, đấy là giải pháp, bí quyết kinh doanh của nhà cung cấp. Có quan điểm nhìn nhận như trên, chúng ta mới xây dựng được một cơ chế về giá trong lĩnh vực xây dựng theo cơ chế thị trường đích thực.

Trong nội dung hợp đồng EPC đã được qui định chi tiết và nghiêm ngặt. Đây là cơ sở pháp lý nhất để kiểm tra, xem xét trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện cũng như kết thúc hợp đồng. Đặc biệt là các điều khoản về thưởng phạt kinh tế, khi một trong các bên tham gia vi phạm.

Nói cách khác, hợp đồng EPC là một hợp đồng kinh tế, cho nên nó phải được chi phối bằng Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Mọi công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát phải dựa vào cơ sở Pháp lệnh Hợp đồng để thực hiện. Chúng ta không nên hình sự hóa công việc này, trừ khi có phát hiện những hiện tượng tham ô, tham nhũng, hối lộ... Có như thế, hệ thống pháp luật nước ta mới tiến tới hội nhập thế giới.

Tóm lại, để thực hiện thành công cũng như nhân rộng và phát triển cơ chế tổng thầu EPC nhằm tạo động lực, điều kiện phát triển ngành công nghiệp nặng (cơ khí chế tạo) là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Chính phủ ta. Song đây cũng là việc làm đầy khó khăn và thử thách, đòi hỏi chúng ta phải có một quan điểm nhất quán và một phương pháp tư duy hoàn toàn mới về phát triển đất nước.

Nói cách khác, chúng ta cần có một quyết sách lớn thể hiện được “ý chí quốc gia”, tương tự quyết sách của Nhật Bản đã thực hiện năm 1935 và Hàn Quốc năm 1965, để đưa hai nước này trở thành những nước công nghiệp hàng đầu thế giới.

Trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một số chủ trương đầu tư, sản xuất với cách tư duy trên. Việc đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất tại Quảng Ngãi cũng nhằm thực hiện mục tiêu này. Nếu chỉ xét về hiệu quả kinh tế đơn thuần (mà không tính đến sự cân bằng phát triển kinh tế các vùng miền) thì chúng ta đã không đặt ở Quảng Ngãi. Tương tự, chúng ta đầu tư để chủ động sản xuất phân đạm trong nước vì sự an ninh lương thực (mặc dù giá phân đạm nhập khẩu có thể rẻ hơn). Bằng cách nhìn nhận này, chúng ta mới có những giải pháp, chính sách thích hợp về tài chính, kinh tế, vốn, ưu đãi thuế cho việc xây dựng các tập đoàn công nghiệp, nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp giàu có và hùng mạnh.

PV: Xin cảm ơn ông!

  • Tags: