Thương mại hàng hóa duy trì tăng trưởng cao
Theo Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương), trong bối cảnh khó khăn và bất ổn, năm 2022 là năm kinh tế thế giới nói chung và khu vực châu Âu - châu Mỹ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn và bất ổn. Tuy nhiên, thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước thị trường châu Âu - châu Mỹ về cơ bản vẫn duy trì mức tăng trưởng khá cao đóng góp quan trọng vào thặng dư thương mại của Việt Nam trong năm 2022.
Cụ thể, năm 2022, tổng kim ngạch XNK hàng hóa giữa Việt Nam và khu vực châu Âu, châu Mỹ chứng kiến mức tăng trưởng khoảng 9,4% so với năm 2021, đạt hơn 230 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 184 tỷ USD tăng 12,3% và chiếm tỷ trọng gần 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2022. Nhập khẩu đạt hơn 46 tỷ USD giảm 1% và chiếm tỷ trọng 12,8% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Thặng dư thương mại với thị trường này đạt tới 138 tỷ USD giúp cán cân thương mại của Việt Nam đạt mức thặng dư 12,4 tỷ USD.
Ông Tạ Hoàng Linh - Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương) nhận định, kết quả tích cực như trên đến từ sự tăng trưởng xuất khẩu tích cực ở những thị trường xuất khẩu trọng điểm như: Hoa Kỳ đạt 109,4 tỷ USD tăng 13,6% so với năm 2021; EU-27 đạt 46,8 tỷ USD tăng 16,7%; các nước CPTPP ở châu Mỹ đạt 13,1 tỷ USD tăng 8,7%; Anh đạt gần 6,1 tỷ USD tăng 5,2%.
Trong đó, khoảng 15 mặt hàng xuất khẩu sang khu vực Âu Mỹ có kim ngạch trên một tỷ USD trong đó một số mặt hàng tăng trưởng hai con số: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 28,6 tỷ USD tăng 18,5% so với năm 2021; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 25,1 tỷ USD tăng 14,2%; Hàng dệt may đạt hơn 24,6 tỷ USD tăng 14%; Giày dép các loại đạt hơn 18 tỷ USD tăng 36%; Thủy sản đạt 4,45 tỷ USD tăng trưởng 10,4%; Café đạt 2,2 tỷ USD, tăng 42,5% v.v...
Đáng chú ý, thời gian qua, hoạt động của Bộ Công Thương hỗ trợ tích cực cho xuất nhập khẩu của Việt Nam không chỉ ở phương diện hỗ trợ khai thác thị trường truyền thống, mở rộng thị trường/sản phẩm mới, tiềm năng mà còn ở phương diện bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời hạn chế tác động tiêu cực hay dỡ bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan.
Điển hình như việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong xử lý 2 vụ việc điều tra theo Mục 301 về vấn đề định giá thấp tiền tệ và sử dụng gỗ bất hợp pháp của Việt Nam, góp phần vào việc đấu tranh để phía Hoa Kỳ không ban hành bất kỳ biện pháp hạn chế thương mại nào đối với Việt Nam; xử lý các vụ việc liên quan tới các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc bị lừa đảo (vụ xuất khẩu điều) tại thị trường EU…
Ông Tạ Hoàng Linh cho rằng, năm 2023, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với thị trường châu Âu - châu Mỹ sẽ có những điều kiện thuận lợi, khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đang có với các đối tác khu vực này (CPTPP, Việt Nam - Chi lê, EVFTA, VN-EAEU FTA, UKFTA, v.v...) tiếp tục có tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư và đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam. Một thuận lợi khác là thị trường xuất khẩu chủ lực ở các nước khu vực châu Âu tuy có thể tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn duy trì ở mức tăng trưởng dương, trừ Nga.
Việc các nước phương tây (Âu Mỹ) duy trì hoặc tăng thêm lệnh trừng phạt với Nga; tiếp tục chiến lược kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc dẫn đến việc các nước này sẽ tăng cường tìm kiếm nguồn hàng thay thế, địa bàn đầu tư thay thế trong khi Việt Nam có thể là một lựa chọn. Điều này đặc biệt đúng khi các nước đều đang chú trọng vấn đề an ninh lương thực, sự ổn định của chuỗi cung ứng trong khi Việt Nam gặt hái nhiều thành công trong sản xuất xuất khẩu nông lâm thủy sản và nổi bật về sự ổn định kinh tế;
Cùng với đó, cam kết của Việt Nam tại COP26, đặc biệt là cam kết đưa mức phát thải ròng về "0" vào giữa thế kỷ được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việc hướng tới sản xuất sản phẩm xanh, bảo vệ môi trường sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai khi nhu cầu các sản phẩm này ở các nước khu vực châu Âu - châu Mỹ ngày một tăng và các chính sách bảo vệ môi trường tại các nước ngày một chú trọng. Việt Nam sẽ nhận càng ngày càng nhiều hỗ trợ của các nước phát triển trong việc chuyển đổi năng lượng, thay đổi nền sản xuất hướng tới kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu dùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, xuất nhập khẩu Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn nhất định trong năm 2023, đến từ nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất tăng khiến nhu cầu tiêu dùng giảm tại các quốc gia trên thế giới trong đó có khu vực châu Âu - châu Mỹ; hay xung đột Nga - Ukraine tiếp tục ảnh hương tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu và chính sách bảo hộ của các nước ngày một tăng. Ngoài ra, việc các nước phát triển càng ngày càng quan tâm nhiều đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu sẽ là tiền đề để dựng lên những tiêu chuẩn mới, quy định mới liên quan đến nguyên liệu, lao động, môi trường cho các sản phẩm nhập khẩu.
Mặt khác, Trung Quốc mở cửa trở lại cộng với việc một số các địa bàn xuất khẩu trọng điểm nới lỏng hơn các biện pháp hạn chế Trung Quốc trước thềm bầu cử (để xoa dịu các vấn đề nội bộ) cũng sẽ làm gia tăng sự cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Thêm nhiều giải pháp đồng bộ
Với mục tiêu tận dụng tối đa thuận lợi và giảm thiểu tác động của các thách thức trên đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, Bộ Công Thương cho biết sẽ tập trung triển khai các nhóm giải pháp đồng bộ về thị trường và doanh nghiệp trong năm 2023.
Về thị trường, theo dõi sát tình hình thị trường, tham mưu, đề xuất các khung khổ hợp tác, các giải pháp phát triển thị trường truyền thống đồng thời đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Trong đó, tiếp tục nắm bắt thông tin về tình hình, biến động về chính trị, chính sách trong khu vực và trên thế giới ảnh hưởng tới thương mại với Việt Nam, từ đó đưa ra cảnh báo và phản ứng kịp thời. Tăng cường cung cấp thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp.
Tiếp tục chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới như Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA. Mục tiêu là không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp nắm được nội dung cam kết CPTPP, EVFTA, UKVFTA mà còn vận dụng và phát huy có hiệu quả ưu đãi của Hiệp định, từ đó tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế các thách thức đặt ra từ những Hiệp định này.
Đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, đã dạng hóa ngành hàng để giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường/ngành hàng truyển thống. Hiện nay các thị trường như Hoa Kỳ, Đức, Anh, Hà Lan... chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu.
Dù có quy mô nhỏ, nhưng những thị trường khu vực Bắc Âu, Đông Âu, Mỹ Latin cũng đang có tốc độ tăng trường xuất khẩu đáng ghi nhận trong những năm trở lại đây, điển hình như: Ba Lan (11%), CH Séc (14,6%), Đan Mạch (40%), Rumani (tăng 52,6%), Slovenia (14,1%), Latvia (20,2%), Bungary(31%)…
“Các thị trường này còn nhiều dư địa khai thác. Nếu có hướng tiếp cận và thâm nhập bài bản, phù hợp, hàng hóa Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh, gia tăng hiện diện tại các thị trường này. Đồng thời cũng cần gia tăng, đa dạng hóa những sản phẩm mũi nhọn trong xuất khẩu, đẩy mạnh trao đổi các nhóm hàng có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, các sản phẩm kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…”, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ nhận định.
Bên cạnh đó, cũng cần triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác của Ủy ban liên Chính phủ/hỗn hợp; hỗ trợ quản lý và chỉ đạo hệ thống Thương vụ hoạt động hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại và đầu tư…
Về hỗ trợ doanh nghiệp, Bộ Công Thương sẽ phát huy cao vai trò của hệ thống thương vụ, đẩy mạnh công tác hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt thị trường và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp.
Công tác hỗ trợ doanh nghiệp sẽ được triển khai theo hướng cụ thể và sâu sát theo từng thị trường và ngành hàng, tập trung vào: (i) Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về các hướng tiếp cận kinh tế tuần hoàn, các yếu tố về sản xuất và tiêu dùng bền vững với mục đích thay đổi dần tư duy sản xuất của doanh nghiệp, khuyến khích áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu, sử dụng năng lượng tái tạo đáp ứng tiêu chuẩn và quy định ngày càng khắt khe của các nước phát triển nhất là các nước đã có cam kết tại COP26; (ii) Khắc phục những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay như: thông tin thị trường, khả năng tự chủ nguyên phụ liệu, năng lực sản xuất để đảm bảo yêu cầu thị trường, xây dựng thương hiệu…
Tăng cường mối liên hệ qua các nền tảng trực tuyến giữa doanh nghiệp và hệ thống Thương vụ để phát huy vai trò của Thương vụ tại địa bàn đồng thời bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam.
Tận dụng các hãng phân phối là đối tác trong “Đề án xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối ở ngoài nước”, tận dụng nguồn lực các chuyên gia nước ngoài và các doanh nghiệp Việt kiều (thông qua hoạt động với cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài), huy động hệ thống ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam chuẩn hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu hay từng bước xây dựng thương hiệu của mình.