Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) có 07 Chương với 80 Điều. So với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, nhiều nội dung mới đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Trong đó, cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương là một trong những nội dung mới quan trọng, thu hút nhiều sự quan tâm.
Người tiêu dùng thông thường được xác định là bên yếu thế trong mối quan hệ giao dịch tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh như yếu thế về sức mạnh kinh tế, về nhận thức, về thông tin, về khả năng gánh chịu rủi ro,…
Đặc biệt, người tiêu dùng mang những yếu tố, hoàn cảnh, đặc tính bất lợi riêng còn phải chịu những bất lợi khác như về khả năng tiếp cận thông tin, về sức khỏe, về tài sản, … khi tham gia vào các giao dịch tiêu dùng. Vì vậy, cần phải có những chính sách, quy định riêng ưu tiên, hỗ trợ cho nhóm người tiêu dùng đặc thù này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tối đa cho người tiêu dùng.
Bên cạnh những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã có một số quy định dành riêng để bảo vệ quyền lợi cho nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương.
7 nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã cụ thể hóa nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương. Theo đó, người tiêu dùng dễ bị tổn thương được xác định là người tiêu dùng có khả năng chịu nhiều tác động bất lợi về tiếp cận thông tin, sức khỏe, tài sản, giải quyết tranh chấp tại thời điểm mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) quy định có 07 nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương
(1) Người cao tuổi theo quy định của pháp luật về người cao tuổi;
(2) Người khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật;
(3) Trẻ em theo quy định của pháp luật về trẻ em;
(4) Người dân tộc thiểu số; người sống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;
(5) Phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
(6) Người bị bệnh hiểm nghèo theo quy định của pháp luật;
(7) Thành viên hộ nghèo theo quy định của pháp luật.
Đáng chú ý, quy định “Phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi” đã được sửa thành “Phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi” trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp lần này.
Quyền lợi người tiêu dùng dễ bị tổn thương được ưu tiên bảo vệ
So với người tiêu dùng thông thường, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) quy định nhóm người tiêu dùng dễ bị tổn thương được ưu tiên bảo vệ quyền lợi trong một số trường hợp.
Cụ thể, người tiêu dùng dễ bị tổn thương được bảo đảm các quyền của người tiêu dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) và các quyền, chính sách ưu tiên theo quy định khác của pháp luật có liên quan; được tổ chức, cá nhân kinh doanh ưu tiên tiếp nhận, xử lý và không chuyển yêu cầu của người tiêu dùng cho bên thứ ba giải quyết khi quyền lợi bị xâm phạm, trừ trường hợp bên thứ ba đó có nghĩa vụ liên quan; được tổ chức, cá nhân kinh doanh bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp chậm, từ chối ưu tiên hoặc từ chối tiếp nhận, xử lý yêu cầu của người tiêu dùng theo quy định; được cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội bảo đảm ưu tiên tiếp nhận, xử lý yêu cầu và hướng dẫn cung cấp các chứng cứ, tài liệu về việc quyền lợi của mình bị xâm phạm (Theo Khoản 2 Điều 8 Luật).
Để có cơ sở nhận diện chính xác người tiêu dùng dễ bị tổn thương, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) cũng quy định, người tiêu dùng dễ bị tổn thương có yêu cầu cần bảo vệ cần kèm theo chứng cứ, tài liệu chứng minh mình là người tiêu dùng dễ bị tổn thương và về việc quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh và các tổ chức xã hội, cơ quan quản lý nhà nước đối với người tiêu dùng dễ bị tổn thương
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) quy định cụ thể trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với riêng nhóm đối tượng này.
Khi giao dịch với nhóm đối tượng người tiêu dùng dễ bị tổn thương, tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm áp dụng cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp theo quy định của pháp luật phù hợp với từng đối tượng người tiêu dùng dễ bị tổn thương; không được từ chối giải quyết yêu cầu được bảo vệ của người tiêu dùng dễ bị tổn thương quy định tại điểm c khoản 2 Điều này do khác biệt về tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán; chống kỳ thị, phân biệt đối xử, lợi dụng yếu tố dễ bị tổn thương để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trong quá trình thực hiện giao dịch; xây dựng, ban hành trình tự, thủ tục, phương thức hoặc các biện pháp phù hợp với từng đối tượng người tiêu dùng dễ bị tổn thương để bảo đảm quyền khiếu nại, yêu cầu giải quyết tranh chấp và các quyền khác của người tiêu dùng dễ bị tổn thương; xây dựng, cập nhật, công khai cho người tiêu dùng dễ bị tổn thương các nội dung quy định tại khoản này theo hình thức niêm yết tại trụ sở, địa điểm kinh doanh hoặc đăng tải trên trang thông tin điện tử, phần mềm ứng dụng (nếu có) và đào tạo, tập huấn cho người lao động của mình về các nội dung đó.
Trách nhiệm quy định tại điểm này không bắt buộc áp dụng đối với cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh; doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp doanh nghiệp đó thực hiện giao dịch quy định tại Chương III của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) (Theo Khoản 3 Điều 8 Luật).
Ngoài ra, Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong việc bảo đảm ưu tiên tiếp nhận, xử lý yêu cầu của người tiêu dùng dễ bị tổn thương và hướng dẫn người tiêu dùng dễ bị tổn thương cung cấp các chứng cứ, tài liệu về việc quyền lợi của mình bị xâm phạm; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình tổ chức thực hiện các trách nhiệm.