Tóm tắt:
Hiện nay, bên cạnh việc cải thiện nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội thì công tác xóa đói giảm nghèo ở miền núi, đặc biệt đối với vùng cao, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Bài viết này luận bàn về vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ trong xóa đói giảm nghèo và phát triển ở một số huyện miền núi tỉnh Nghệ An. Dựa trên cơ sở dữ liệu thứ cấp báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ Nghệ An và báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội hàng năm của địa phương; kết hợp phương pháp phỏng vấn sâu những hộ gia đình dân tộc thiểu số đã thoát nghèo, cho thấy Hội Liên hiệp phụ nữ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xóa đói giảm nghèo. Bằng việc thực hiện các biện pháp xóa đói giảm nghèo kết hợp nâng cao bình đẳng giới là hướng đi hợp lý để giảm nghèo hiệu quả và hướng đến phát triển bền vững một số huyện miền núi tỉnh Nghệ An.
Từ khóa: phụ nữ, hội liên hiệp phụ nữ, xóa đói giảm nghèo, miền núi, phát triển.
1. Đặt vấn đề
Đói nghèo là một khái niệm đa chiều được các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều góc độ khác nhau. Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của địa phương (Ngô Trường Thi, 2014). Như vậy, đói nghèo được hiểu là tình trạng thiếu thốn vật chất, thiếu nước sạch, thiếu các dịch vụ khác và thu nhập không đáp ứng được nhu cầu mức sống cơ bản của một cá nhân, hay của một hộ gia đình. Tỷ lệ nghèo đói có thể được áp dụng cho toàn bộ dân số, hộ gia đình, trong đó có nữ giới và nam giới. Mặc dù đạt được những thành tích đáng kể trong công tác triển khai các dự án và chương trình xóa đói giảm nghèo, nhưng ở miền núi Nghệ An tỷ lệ đói nghèo hiện nay vẫn còn cao. Phụ nữ người miền núi, người dân tộc thiểu số (DTTS) tham gia lãnh đạo ở cấp cơ sở còn yếu và thiếu. Các vấn đề xóa đói giảm nghèo còn là những thách thức lớn ở miền núi, đặc biệt là các địa bàn vùng sâu, vùng xa.
Tỉnh Nghệ An có diện tích tự nhiên 16.487 km2, diện tích địa bàn miền núi là 13.745 km2, chiếm 83% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đồng bào DTTS là 491.267 người chiếm 14,76% dân số toàn tỉnh với 47 dân tộc, trong đó dân số có dân số đông là: Thái (338.559 người), Thổ (71.420 người), Khơ Mú (43.139 người), Mông (33.957 người)[1] chủ yếu sinh sống ở miền núi phía Tây Nghệ An, thuộc các huyện Nghĩa Đàn, Quế Phong, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương… Họ sinh sống tập trung ở 252 xã, 1.339 thôn, bản thuộc 10 huyện miền núi phía Tây, trong đó có 106 xã thuộc khu vực III, 100 xã khu vực II và 46 xã khu vực I; 1.182 thôn bản đặc biệt khó khăn[2]. Mặc dù, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có phần cải thiện đáng kể so với trước đây, nhưng tỷ lệ thoát nghèo chưa cao. Nhưng phải kể đến vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ (Hội LHPN) địa phương đã chủ động hướng dẫn cho các cấp hội, phối hợp cùng rà soát, đẩy mạnh các chính sách giảm nghèo thông qua các Chương trình, Đề án. Hội LHPN chủ động triển khai có kế hoạch, giải pháp hỗ trợ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn phát triển kinh tế để giảm nghèo.
2. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp phân tích tư liệu thứ cấp từ Báo cáo kết quả thực hiện chính sách dân tộc của Ủy ban dân tộc; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX; Báo cáo của Hội LHPN tỉnh và các huyện miền núi thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An,… trong giai đoạn (2021-2024). Mục đích thu thập dữ liệu báo cáo để tổng quan, đánh giá vấn đề thực trạng và kết quả thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở miền núi Nghệ An nhằm đưa ra cơ sở dữ liệu khách quan cho bài viết. Bên cạnh, sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính là phương pháp chủ đạo, thông qua phỏng vấn sâu 15 hộ đồng bào DTTS đã và đang thoát nghèo. Mục đích để có cái nhìn khách quan về vai trò của Hội LHPN tại địa bàn nghiên cứu.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Kết quả thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo
Công tác giảm nghèo là nội dung quan trọng trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các huyện miền núi phía Tây Nghệ An. Bằng cách lồng ghép các cơ chế, chính sách, chính quyền và nhân dân các địa phương khu vực miền Tây Nghệ An không ngừng nỗ lực để công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả thiết thực nhất. Hiệu quả từ các chính sách giảm nghèo là ngoài việc khơi dậy sức mạnh nội lực như huy động nguồn lao động tại chỗ, nâng cao ý thức xóa đói, giảm nghèo trong đồng bào thì công cuộc xóa đói, giảm nghèo cũng đã huy động được sức mạnh tổng hợp từ cộng đồng xã hội đối với người nghèo. Hằng năm, thông qua chương trình “Quỹ hỗ trợ vì người nghèo” đã có hàng trăm doanh nghiệp chung tay cùng chính quyền các cấp, đóng góp hàng trăm tỷ đồng cho người nghèo. Do đó, việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào DTTS và miền núi ở Nghệ An bước đầu đạt được những kết quả: Các chính sách được tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào DTTS gắn với ổn định đời sống chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh vùng DTTS và miền núi. Giai đoạn 2015-2020, kinh tế - xã hội các huyện miền núi phía Tây Nghệ An đã có bước phát triển. Quy mô, tiềm lực kinh tế ngày càng được nâng lên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực3.
Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn phía Tây Nghệ An đã hình thành được một số vùng sản xuất cây nguyên liệu, chăn nuôi tập trung quy mô lớn gắn với phát triển công nghiệp chế biến như: vùng trồng mía, trồng cây chè ở Tân Kỳ, Anh Sơn; vùng chăn nuôi bò sữa, trồng cây cao su ở Nghĩa Đàn. Nhiều vùng đã chú trọng khai thác hợp lý tiềm năng mặt nước hồ thủy điện, khoáng sản, đất đai để nâng cao hiệu quả kinh tế; thương mại, dịch vụ. Mô hình trồng cây ăn quả ở các vùng biên, vùng sâu vùng xa cho hiệu quả cao, như: chanh leo ở huyện Quế Phong; cam, quýt ở huyện Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp; mô hình trồng cây dược liệu để chế biến thực phẩm chức năng ở huyện Con Cuông… từng bước nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần ổn định đời sống, bảo đảm ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh vùng đồng bào DTTS và miền núi. Nhiều hộ dân ở xã Hữu Kiệm (Kỳ Sơn) nhờ vay vốn ưu đãi phát triển kinh tế nên đã xây dựng được những mô hình trang trại mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của xã. Chủ tịch UBND xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn cho biết: nhờ các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước đã khơi dậy và tiếp sức để nhiều hộ gia đình thoát nghèo vươn lên làm giàu thông qua việc phát triển các mô hình kinh tế. Điều dễ nhận thấy là, ý thức của người dân trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới được nâng lên rõ rệt.
Thực hiện tốt các chương trình, chính sách đầu tư, hỗ trợ đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội các huyện nghèo, xã, thôn đặc biệt khó khăn. Thu hút đầu tư cho vùng dân tộc và miền núi từ nhiều nguồn vốn và các nguồn tài trợ hợp pháp trong và ngoài nước. Phát triển chợ đầu mối, nâng cấp, cải tạo các chợ biên giới, chợ trong vùng kinh tế cửa khẩu; mở rộng giao lưu, trao đổi, quảng bá hàng hóa nông sản tại các vùng sản xuất tập trung, chợ dân sinh; quy hoạch, sắp xếp, ổn định dân cư gắn với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng nông thôn mới.
Các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, vốn tín dụng đối với hộ đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó khăn đã được thực hiện tốt; Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ, chuyển đổi ngành nghề, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Xây dựng chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi; Chính sách hỗ trợ ổn định lương thực và các mặt hàng thiết yếu cho người dân ở địa bàn đặc biệt khó khăn vùng biên giới để đồng bào yên tâm định cư, giữ vững thế trận an ninh biên giới.
Tính đến tháng 6/2022, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi còn 21,20%, hộ cận nghèo 11,66%. Song trong 10 năm qua (2012-2022) thực hiện chủ trương “mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhận giúp đỡ một xã nghèo” do UBND tỉnh Nghệ An phát động, đã đem lại hiệu quả thiết thực cho người nghèo, xã nghèo của tỉnh. Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã giúp đỡ, ủng hộ các xã nghèo miền Tây với số tiền 310 tỷ đồng. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo các huyện miền núi phía Tây giảm từ 24,04% đầu năm 2016 xuống còn gần 8,18% cuối năm 2021 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020), trong đó, các huyện nghèo giảm bình quân 5,97%/năm4. Như vậy, công tác xóa đói giảm nghèo vùng miền núi Nghệ An đang ngày càng đạt được những kết quả tích cực. Thành quả to lớn nhất trong công tác giảm nghèo, là sự thay đổi của đồng bào DTTS trong việc nâng cao ý thức tự lực, tự cường vươn lên xây dựng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững, xây dựng được một diện mạo mới cho vùng đồng bào DTTS và vùng nông thôn miền núi Nghệ An. Kết quả này, nhờ vào chính quyền các cấp và người dân đã linh hoạt lồng ghép các chương trình, dự án từ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước dành cho vùng đồng bào DTTS và miền núi; sự đồng lòng linh hoạt trong việc huy động, lồng ghép các nguồn lực để xây dựng các mô hình kinh tế phù hợp, chất lượng đối với từng địa bàn. Trong đó, phải kể đến vai trò của Hội LHPN các cấp trong công tác thực tiễn, bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua tuyên truyền, vận động, giúp đỡ đã góp phần thúc đẩy bà con DTTS từng bước thoát nghèo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.
3.2. Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ
Để thực hiện tốt phong trào Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới, ngay từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026, Hội LHPN Nghệ An đặc biệt coi trọng công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Theo báo cáo của Hội LHPN huyện Nghĩa Đàn năm 2023 toàn huyện có 1.100 hộ nghèo, có hơn 300 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Các cấp Hội đã vận dụng sáng tạo, tích cực phối hợp tuyên truyền, vận động hội viên phụ nữ chuyển đổi hành vi, phát huy nội lực, thực hiện tốt chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo bằng nhiều hình thức thiết thực.
Đầu tiên, hỗ trợ giải quyết việc làm cho chị em phụ nữ. Xác định rõ hướng dẫn cho hội viên, tạo tiền đề cho chị em phụ nữ có cơ sở, nền tảng để có việc làm. Từ năm 2021 đến nay, Hội LHPN các cấp trên địa bàn huyện đã phối hợp với Trường Trung cấp nghề kinh tế kỹ thuật miền Tây, Trung tâm Dạy nghề của huyện tổ chức khai giảng được 82 lớp học sơ cấp về chăn nuôi thú y, lớp học may công nghiệp, lớp nấu ăn, các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hơn 4.000 chị trên địa bàn toàn huyện. Hàng năm, phối hợp làm tốt các phiên hội chợ kết nối việc làm với hơn 10.000 hội viên, phụ nữ tham gia. Sau học nghề, các cấp Hội đã kết nối, giới thiệu được hơn 500 lao động nữ trong các công ty may mặc, quán ăn trên địa bàn và xuất khẩu lao động.
Thêm vào đó, các cấp Hội trên địa bàn huyện tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ phụ nữ khởi sự kinh doanh và khởi nghiệp. Kết quả, trong nửa nhiệm kỳ qua đã tổ chức được 2 lớp tập huấn vận động hỗ trợ phụ nữ sáng tạo khởi nghiệp cho 220 chị. Hỗ trợ 51 ý tưởng khởi nghiệp; xây dựng mới 2 mô hình khởi nghiệp tại xã Nghĩa Yên, Nghĩa Lợi; 8 mô hình về An toàn vệ sinh thực phẩm; 28 mô hình vườn rau sạch; thành lập mới được 2 tổ liên kết “Sản xuất và tiêu thụ ổi sạch” tại xã Nghĩa Sơn. Tổ liên kết “Làm công bóc vỏ mía, làm cỏ tại xã Nghĩa Phú”; một Tổ hợp tác chăn nuôi lợn tại xã Nghĩa Thọ. Qua những hoạt động đó, Hội đã góp phần giúp cho hội viên, phụ nữ ở địa bàn có nhiều cơ hội việc làm và tạo ra thu nhập cho gia đình.
Thứ hai, các cấp Hội phụ nữ ở một huyện như Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quế Phong đã tích cực hỗ trợ phụ nữ nâng cao quyền năng kinh tế, như hỗ trợ vay vốn từ ngân hàng và hỗ trợ học nghề, hỗ trợ con giống, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng. Nhờ được hỗ trợ, vay vốn, nhiều gia đình hội viên phụ nữ huyện Quế Phong, huyện Nghĩa Đàn có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, thay đổi nếp nghĩ cách làm, vươn lên thoát nghèo. Cũng từ phong trào trên, thông qua đề án khởi nghiêp, Hội phụ nữ xã Nghĩa Hồng đã hỗ trợ 200 con gà giống, kỹ thuật chăm sóc, thức ăn cho những hộ nghèo phụ nữ là chủ hộ. Hội LHPN xã đã vận động cán bộ hội viên và bà con nhân dân trong xóm cùng chung tay đóng góp mua hỗ trợ con giống, giúp chị em phát triển chăn nuôi, tăng thêm thu nhập, phấn đấu thoát nghèo vào cuối năm 2023. “Gia đình tôi với hoàn cảnh khó khăn, con nhỏ, lại phải nuôi mẹ già và anh chồng bệnh tật nên nhiều năm qua, gia đình tôi luôn trong cảnh thiếu thốn. Đầu năm 2020, gia đình tôi được Hội LHPN huyện hỗ trợ 10 triệu đồng từ nguồn quỹ vì phụ nữ nghèo, tôi đã mua một con bê sinh sản. Nhờ chịu khó chăm sóc, đến nay bê đã thành bò sinh sản, giúp gia đình tôi có thêm việc làm để cải thiện cuộc sống gia đình”. (PVS Nguyễn Thị M nữ 39 tuổi, Chi hội phụ nữ xóm Sình, xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Đàn).
Thêm vào đó, lễ ra mắt mô hình điểm “Tổ tiết kiệm và vay vốn theo hướng bền vững gắn với hoạt động cộng đồng”4 tại huyện Con Cuông. Mục tiêu chính của mô hình là tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ đồng bào DTTS, tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Đồng thời, góp phần xây dựng cộng đồng gắn kết, đoàn kết, tạo môi trường sống văn hóa, an toàn, lành mạnh cho người dân địa phương
“Từ ngày được hỗ trợ bò cái sinh sản mà kinh tế của gia đình tôi đã dần khá lên. Từ hộ nghèo, không có con giống để sản xuất, giờ đây gia đình đã có đàn bò để chăm sóc và hiện đã thoát khỏi danh sách hộ nghèo trong xã. Tôi cố gắng chăm sóc bò cho thật tốt để nó sinh sản và sau này có điều kiện lo cho con cái được học hành” (PVS nữ 45 tuổi, huyện Con Cuông). Bằng những hoạt động hỗ trợ thiết thực, Hội LHPN huyện đã và đang tạo điều kiện giúp nhiều hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống.
Thứ ba, các hoạt động xã hội khác. Theo Báo cáo của Hội LHPN huyện Nghĩa Đàn, trong nhiệm kỳ (2021-2026): Thực hiện “Chương trình mẹ đỡ đầu” đã kết nối mẹ đỡ đầu với 77 đối tượng là con mồ côi, hỗ trợ cho các cháu trên 250 triệu đồng. Trong Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” đã bàn giao 8 nhà mái ấm tình thương, hỗ trợ 502 gia đình xây dựng công trình nước sạch. Với phương châm “giúp hội viên phụ nữ thoát nghèo, không thể cho con cá mà phải cho cần câu”. Do đó, Hội LHPN chỉ đạo cơ sở thực hiện có hiệu quả các phong trào, cuộc vận động như: Vì Phụ nữ nghèo, hũ gạo tình thương, Ống tiền tiết kiệm… Từ năm 2019 đến năm 2023, Hội Phụ nữ huyện Nghĩa Đàn đã vận động được trên 350 triệu đồng quỹ vì phụ nữ nghèo, hơn 16.000 kg gạo từ phong trào hũ gạo tiết kiệm, 202 triệu đồng từ quỹ ống tiền tiết kiệm cho chị em phụ nữ nghèo vay phát triển kinh tế.
Đây là những mô hình sáng tạo và thiết thực, có tính thực tiễn cao, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống cho người dân địa phương. Với việc đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ cùng với ý chí tự lực vươn lên của các hội viên đã làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng hộ khá giả, đời sống của chị em ngày càng được nâng lên, góp phần cùng địa phương thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như trên, vai trò của Hội LHPN một số huyện ở tỉnh Nghệ An còn gặp nhiều khó khăn trong công tác xóa đói giảm nghèo và phát triển miền núi. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững thể hiện ở tình trạng tái nghèo hoặc phát sinh nghèo còn cao nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt. Ngoài ra, do nhiều chính sách giảm nghèo vẫn thực hiện theo hình thức hỗ trợ không hoàn lại, đặc biệt là chính sách hỗ trợ vốn và chính sách hỗ trợ các yếu tố trực tiếp sản xuất như con giống, phân bón, chuồng trại. Những hỗ trợ này đã có những tác động đáng kể đến cải thiện cuộc sống cho nhiều hộ gia đình, đặc biệt là những hộ nghèo. Tuy nhiên đang làm nảy sinh những bất cập, đó là càng hỗ trợ càng tạo nên tính trông chờ, ỷ lại; không thúc đẩy tính trách nhiệm của người tiếp nhận hỗ trợ; không thúc đẩy, khơi thông được nguồn lực trong dân đầu tư thêm vào sản xuất./.
Tài liệu trích dẫn:
1 UBND tỉnh Nghệ An - Ban Dân tộc (2021): Báo cáo kết quả thực hiện chính sách dân tộc năm 2020, phương hướng năm 2021.
2 UBND tỉnh Nghệ An - Ban Dân tộc. (2023): Báo cáo kết quả thực hiện chính sách dân tộc năm 2022, phương hướng năm 2023.
3 Trích theo Trần Văn Điều. (2023). “Thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - Nhìn từ thực tiễn Nghệ An”. Truy cập tại https://lyluanchinhtri.vn/thuc-hien-chuong-trinh-giam-ngheo-ben-vung-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-nhin-tu-thuc-tien-nghe-an-1157.html#:~:text=T%E1%BB%AB%20th%E1%BB%B1c%20ti%E1%BB%85n%20%E1%BB%9F%20Ngh%E1%BB%87%20An%2C%20b%C3%A0i%20vi%E1%BA%BFt,d%E1%BB%87t%20th%E1%BB%95%20c%E1%BA%A9m%20truy%E1%BB%81n%20th%E1%BB%91ng%20-%20%E1%BA%A2nh%3A%20baonghean.vn
4 “Tổ tiết kiệm và vay vốn theo hướng bền vững gắn với hoạt động cộng đồng” được thành lập theo Quyết định số 15/QĐ-HĐQT ngày 5/3/2013 của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Chính sách xã hội về việc ban hành quy chế tổ chức hoạt động của tổ gồm 60 thành viên là toàn bộ hoặc đa số tổ viên của Tổ TK&VV, các thành viên khác (trong thôn/xóm) tự nguyện.
Tài liệu tham khảo:
Đặng Nguyên Anh. (2017). Nghèo đa chiều ở Việt Nam: Một số vấn đề chính sách và thực tiễn. Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3.
Nguyễn Hoàng Anh. (2023). "Vai trò của người phụ nữ trong gìn giữ giá trị gia đình truyền thống và xây dựng gia đình thủ đô thời kỳ mới". Tạp chí Học viện Phụ nữ số 1, tr. 22-33.
Tỉnh ủy Nghệ An. (2020). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, NXB Nghệ An.
The role of the Women’s Union in poverty reduction and development in the mountainous districts of Nghe An Province
Nguyen Thi Hanh
Center for Social and Environmental Studies, Institute of Social Sciences for the Central and Central Highlands Regions
Abstract
Despite progress in economic, cultural, and social development, poverty reduction in mountainous and ethnic minority areas remains a significant challenge. This study examines the role of the Women's Union in poverty alleviation and development in selected mountainous districts of Nghe An province. Using secondary data from the Nghe An province’s Women's Union and local annual socio-economic development reports, combined with in-depth interviews with ethnic minority households that have escaped poverty, the findings highlight the union’s pivotal role in poverty reduction efforts. The integration of poverty alleviation measures with initiatives to promote gender equality emerges as an effective approach, contributing to sustainable development in the targeted districts.
Keywords: women, Women's Union, poverty, mountainous areas, development.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 24 tháng 7 năm 2025]