Chỉ tiêu cao hơn với mô hình tăng trưởng mới
Vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng lần đầu tiên được đề cập tại Đại hội Đảng lần thứ XI. Qua mỗi Đại hội, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng tiếp tục được cập nhật cho phù hợp với bối cảnh thế giới và thực tiễn ở nước ta.
Trong văn kiện của Đại hội XI, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng là chuyển “từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Đại hội XII tiếp tục xác định “kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu”; đồng thời bổ sung thêm “nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo”.
Tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, với hơi thở của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, câu chuyện đổi mới mô hình tăng trưởng được nhấn mạnh ở từ khóa “đổi mới, sáng tạo”. Cụ thể: “chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Vì thế, nếu Đại hội XII đề ra các chỉ tiêu phấn đấu: Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng kinh tế khoảng 30-35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng 5%/năm; thì Đại hội XIII đề ra chỉ tiêu ở mức cao hơn hẳn: Đến năm 2025, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm; đến năm 2030: đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt 50%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm.
Có thể nói, vấn đề trung tâm của đổi mới mô hình tăng trưởng của Đại hội XIII là phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; từ đó, đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ; ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế; khuyến khích nhập khẩu, chuyển giao công nghệ tiên tiến của thế giới, nâng cao năng lực hấp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Chính vì vấn đề trung tâm của đổi mới mô hình tăng trưởng là đổi mới sáng tạo, nên sự vận dụng “trúng” và “đúng” với tình hình thực tiễn ở địa phương trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Đặt trong sự phát triển của vùng
Ở Quảng Ninh, đổi mới mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa trên tăng trưởng xanh, giảm bớt việc dựa vào các yếu tố không bền vững như tài nguyên hữu hạn và tăng dần các yếu tố bền vững dựa vào vị trí địa chính trị, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hóa, truyền thống lịch sử và trí tuệ con người... Để tạo động lực tăng trưởng dài hạn, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, Quảng Ninh chú trọng đầu tư hạ tầng ngành thương mại và du lịch. Tỉnh đã huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng, hoàn thiện, khai thác tốt hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch, dịch vụ gắn với hạ tầng giao thông đồng bộ, gắn với khai thác hiệu quả hệ thống cửa khẩu, cảng hàng không và cảng biển. Đồng thời, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch; hình thành chuỗi sản phẩm du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng đa dạng, đặc sắc, hiện đại, cao cấp.
Với Công nghiệp, Quảng Ninh xác định ngành than, điện và công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ đóng vai trò trụ cột trong tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách. Trên thực tế, ngay từ những bước khởi đầu của nhiệm kỳ mới, với tinh thần hành động, khẩn trương, Quảng Ninh đưa ra nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để ngành than phát triển ổn định và tăng sản lượng tối đa đáp ứng nhu cầu than cho nền kinh tế. Đồng thời, tạo điều kiện tối đa để các ngành xi măng, điện tử, dệt may, dầu ăn, bột mì... đẩy mạnh sản xuất, gia tăng số lượng sản phẩm, kết nối phát triển thị trường tiêu thụ, xuất khẩu hàng hóa. Nhờ đó, công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng khẳng định là một ngành quan trọng trong nền kinh tế và là một trong những trụ cột chính trong nền kinh tế của tỉnh. Các mục tiêu, tốc độ tăng trưởng, thu hút vốn đầu tư vượt mục tiêu đề ra như: Tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu GRDP tăng dần, năm 2021 chiếm 11,3% (năm 2020 chiếm 9,8%), năm 2022 chiếm 11,5%; dự kiến năm 2023 chiếm 12,3%.
Đối với Bà Rịa-Vũng Tàu, với lợi thế tiềm năng kinh tế biển, ngoài vai trò là trung tâm của ngành công nghiệp dầu khí cả nước, đây còn là cửa ngõ hàng hải của cả khu vực Nam Bộ, với hệ thống cảng nước sâu hiện đại nhất hiện nay, đã xác định các trụ cột phát triển gồm công nghiệp, cảng biển, du lịch và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Trên cơ sở đó, tỉnh tập trung phát triển công nghiệp chế biến chế tạo gắn với công nghệ thông minh; đầu tư hạ tầng giao thông đa phương thức, kết nối liên vùng, liên khu vực và quốc tế nhằm tăng năng lực khai thác các cụm cảng. Ðể đánh thức tiềm năng du lịch biển và tạo ra những sản phẩm du lịch mới, Bà Rịa - Vũng Tàu đã xây dựng tuyến đường ven biển nối TP Vũng Tàu với các huyện Long Ðiền, Ðất Ðỏ, Xuyên Mộc và với tỉnh Bình Thuận, dài hàng chục km, đi qua các làng chài, vốn nhiều đời chỉ quen nghề đánh bắt thủy, hải sản.
Với Thanh Hóa, vấn đề trung tâm của đổi mới mô hình tăng trưởng là hướng đến trở thành một cực tăng trưởng trong không gian của tứ giác phát triển gồm Thanh Hóa, Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng. Cực tăng trưởng của Thanh Hóa dựa trên 4 trụ cột chính gồm công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ, kinh tế biển… Trong đó, chú trọng tới đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, lấy phát triển theo chiều sâu làm định hướng cơ bản với các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành sử dụng công nghệ cao làm đột phá cho phát triển. Trong lĩnh vực nông nghiệp, tập trung thu hút, hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao, để sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giá trị gia tăng cao, tạo thương hiệu lớn trên thị trường sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Tập trung đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, trọng điểm là các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ứng dụng hiệu quả công nghệ số và chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh.
Đối với TP. Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế, công nghệ, và tài chính của cả nước thì đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế thông qua các chính sách khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, phần mềm, sản phẩm số; xây dựng Thành phố thành trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất cả nước, phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn…. Thành phố đang tập trung chỉ đạo ba động lực tăng trưởng có kết quả ảnh hưởng mạnh tới sự phát triển kinh tế - xã hội (dịch vụ tiêu dùng; đầu tư công; hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa). Đồng thời, xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu đổi mới, sáng tạo về ứng dụng khoa học công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo; là đầu tàu, hình mẫu của cải cách, đổi mới và phát triển của cả nước; trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao mang tầm khu vực, quốc tế; xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, đô thị thông minh, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Đa dạng hóa sản phẩm, chuỗi cung ứng, đa dạng thị trường; kinh tế tuần hoàn, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Điểm qua một số cách làm sáng tạo, trong đổi mới mô hình tăng trưởng của các địa phương nói trên cho thấy, việc đổi mới mô hình tăng trưởng thành công nhất không chỉ gắn với sự năng động của từng địa phương mà còn phải phù hợp sự phát triển chung của cả vùng. Như mô hình tăng trưởng xanh của Quảng Ninh là một sáng tạo, nhưng sự thành công nằm ở chỗ phát huy được lợi thế của tỉnh gắn liền với quy hoạch phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng. Hoặc TP. Hồ Chí Minh có thể “chuyên tâm” vào công nghệ số là nhờ có sự phân công, phối hợp trong quy hoạch tổng thể vùng Đông Nam Bộ.