Áp lực tỷ giá đã đến ngưỡng buộc NHNN hành động quyết liệt hơn
Dữ liệu của hãng Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho thấy, sau khi tiếp nối xu hướng giảm trong quý 1/2024, sang đến tháng 4/2024, lãi suất huy động đã nhích tăng khoảng 0,2 - 0,4 điểm % và chủ yếu tại các kỳ hạn dưới 12 tháng. Tuy nhiên, nhìn chung, mặt bằng lãi suất huy động vẫn đang ở mức thấp, và thậm chí thấp hơn mặt bằng lãi suất trong giai đoạn đại dịch COVID-19.
“Mặt bằng thấp của lãi suất là nguyên nhân chính và chủ yếu khiến áp lực tỷ giá USD/VND luôn thường trực khi chỉ số Dollar Index (DXY) vẫn duy trì ở mức cao”, VCBS nhận định.
Chênh lệch lãi suất còn được quan sát trên thị trường liên ngân hàng khi lãi suất qua đêm của USD luôn cao hơn VND. Thậm chí lợi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam cũng đã giảm về mặt bằng thấp, và thấp hơn lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ. Ngoài ra, việc giá vàng trong thời gian vừa qua tăng mạnh, chủ yếu đến từ tâm lý đầu cơ tích trữ, cũng phần nào gây áp lực lên tỷ giá.
Các chuyên gia phân tích từ VCBS cũng lưu ý, mặc dù dữ trữ ngoại hối của Việt Nam đã được “bồi đắp” theo thời gian nhưng tổng mức dự trữ ngoại hối tính tới cuối năm 2023 ước tính đạt khoảng 3,3 tháng nhập khẩu, cao hơn không nhiều so với mức 3 tháng nhập khẩu do Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF) đề xuất.
Với các yếu tố trên cùng với việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) neo giữ lãi suất ở mức cao kỷ lục 23 năm trở lại đây, áp lực tỷ giá đối với VND luôn thường trực. Từ đầu năm tới nay, VND đã mất giá khoảng 5% so với USD.
“Ở thời điểm này, mức giảm giá của VND so với nhiều quốc gia khác đang ở mức trung bình. Tuy nhiên mức giảm giá gần 5% đã đến ngưỡng buộc Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp mạnh hơn, và sẽ ưu tiên sử dụng công cụ lãi suất nhằm đảm bảo các yếu tố ổn định vĩ mô”, VCBS nhận định.
Mặt bằng lãi suất huy động có thể sẽ dần tăng trở lại
Với góc độ nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam, trong dài hạn, mục tiêu hàng đầu vẫn là đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, tạo sức hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư quốc tế nhằm sử dụng nguồn lực đầu tư, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao thu nhập bình quân đầu người và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Nhiệm vụ này đã được các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thành công trong nhiều năm qua.
Các chuyên gia phân tích của VCBS cho rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều hành theo từng bước và linh hoạt, nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút dòng vốn đầu tư, Việt Nam là điểm đến dựa trên các tiêu chí tiềm năng tăng trưởng của kinh tế, và mức rủi ro quốc gia.
Chính vì vậy, đảm bảo ổn định tỷ giá là yếu tố quan trọng tạo niềm tin thu hút dòng vốn; đồng thời, đảm bảo khả năng trả nợ nước ngoài. Cuối năm 2023, vay nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm vay nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp) ước tính đạt khoảng hơn 145 tỷ USD, tương ứng 37-38% GDP. Áp lực tăng lên tỷ giá có thể ảnh hưởng đến giá trị và khả năng vay, trả nợ của quốc gia.
Trước áp lực tỷ giá thường trực, để đảm bảo các cân đối vĩ mô, Ngân hàng Nước được dự báo buộc phải gia tăng cường độ và liều lượng các biện pháp điều hành, theo sát chỉ đạo mới đây của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong đó giao Ngân hàng Nhà nước điều hành kịp thời, linh hoạt, hài hòa, hợp lý giữa lãi suất và tỷ giá phù hợp với tình hình thị trường, diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ.
Theo đó, các chuyên gia phân tích VCBS nhận định: "Ngân hàng Nhà nước sẽ sử dụng nhiều hơn các công cụ về lãi suất với ưu tiên sử dụng là công cụ lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở".
Động thái đầu tiên đã được ghi nhận vào ngày 23/04 đánh dấu thời điểm lãi suất OMO tăng từ 4% lên 4,25%. Theo sau đó, mặt bằng lãi suất huy động có thể sẽ dần dâng cao hơn nhằm thu hẹp mức chênh lệch lãi suất USD - VND, phần nào giải tỏa áp lực tỷ giá thường trực.
Tuy nhiên, mức tăng lãi suất nếu có sẽ không quá lớn 0,5 - 1 điểm % khi nhu cầu tín dụng trong giai đoạn này không quá đột biến. Dữ liệu cho thấy tăng trưởng tín dụng từ đầu năm tính đến ngày 10/04/2024 đạt trên 1%, trong khi cùng kỳ năm 2023 tăng gần 2,5%. Do đó, việc lãi suất tăng trở lại sẽ khó tạo ra một cuộc chạy đua lãi suất huy động mới, các chuyên gia phân tích VCBS nhấn mạnh.
Cũng theo VCBS, diễn biến tỷ giá sẽ phụ thuộc lớn vào nguồn cung ngoại tệ tại từng thời điểm, điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng như diễn biến sức mạnh USD (chỉ số DXY).
VCBS kỳ vọng, vào thời điểm cuối năm, khi Fed bắt đầu giảm lãi suất, trong điều kiện thuận lợi chỉ số DXY không tăng và thậm chí giảm nhẹ, cùng các điều hành linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước, VND có thể giảm giá hợp lý khoảng 3% so với USD.