Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, bắt đầu từ năm 2015, Việt Nam đã có chủ trương xanh hóa nguồn điện. Cùng với đó, tại Hội nghị Thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo trong khuôn khổ Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố mục tiêu tham vọng Việt Nam sẽ cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia do Thủ tướng làm Trưởng ban và thủ trưởng các Bộ, ngành. Bộ Công Thương đảm trách vai trò chủ chốt trong quá trình chuyển đổi năng lương.
Hiện, Bộ Công Thương đang chủ trì Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 (Quy hoạch Điện VIII) và Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Việt Nam sẽ không phát triển thêm các nhà máy điện than mới sau năm 2030 và xem xét chuyển đổi các nhà máy điện than sang các nguyên liệu sạch hơn, đồng thời phát triển điện khí ở quy mô phù hợp, đáp ứng nguồn cung.
Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm và đặt mục tiêu phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước, đáp ứng nhu cầu điện sinh hoạt của nhân dân, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Với sự quan tâm đó, hệ thống điện quốc gia Việt Nam hiện đã có những bước phát triển vượt bậc, đảm bảo cung cấp đủ điện cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện ngày càng được cải thiện, nâng cao.
Đến hết năm 2021, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đã đạt trên 78.120MW, hệ thống điện quốc gia đã có dự phòng công suất tuy không đồng đều cho tất cả các vùng, miền.
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Chiến lược NLTT) nêu rõ mục tiêu “Tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ năng lượng tái tạo trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc tăng từ khoảng 35% vào năm 2015 tăng lên khoảng 38% vào năm 2020; đạt khoảng 32% vào năm 2030 và khoảng 43% vào năm 2050” và đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích phát triển điện gió, điện sinh khối, điện từ chất thải rắn và điện mặt trời.
Kết quả là đến cuối năm 2021, tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (chưa tính thủy điện) đạt 27% tổng công suất toàn hệ thống.
Trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo với các chính sách như: mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn, Cơ chế đấu thầu chọn nhà đầu tư dự án nguồn điện.
Riêng với điện gió ngoài khơi, loại hình điện năng lượng tái tạo mà Việt Nam có tiềm năng khai thác lớn do có vùng biển rộng lớn, do số giờ vận hành trong năm cao... Theo dự thảo Quy hoạch điện VIII đang được Bộ Công Thương rà soát, hoàn thiện, dự kiến nâng tổng công suất điện gió từ khoảng trên gần 4.000 MW năm 2022 lên đến khoảng 16.121 MW điện gió trên bờ và gần bờ và khoảng 7.000 MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030.
Đến năm 2045, tổng công suất điện gió khoảng 122,45 GW, trong đó điện gió ngoài khơi là 66,5 GW. Tuy nhiên, loại hình nguồn điện gió ngoài khơi chưa có kinh nghiệm phát triển ở Việt Nam do tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ, quy trình và thủ tục đầu tư, quy mô đầu tư lớn dẫn đến việc hiện thực hoá lượng công suất quy hoạch lên tới 7.000 MW vào năm 2030 thực sự là một thách thức lớn.
Cũng theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, Việt Nam đã nhận được hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, trong đó có Chính phủ Na Uy, để chia sẻ kinh nghiệm, tìm hiểu, nghiên cứu xây dựng cơ chế khuyến khích phù hợp nhằm khai thác nguồn tiềm năng thiên nhiên này cũng như thúc đẩy chuỗi cung ứng sản phẩm dịch vụ góp phần gia tăng việc làm, từng bước gia tăng năng lực sản xuất trong nước và gia tăng tỷ trọng nội địa hóa trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Thứ trưởng Đặng Hoàng An cho rằng, Bộ Công Thương mong thời gian tới tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ và các doanh nghiệp của Na Uy trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và đặc biệt là điện gió ngoài khơi, lĩnh vực mà Chính phủ và các công ty của Na Uy nói chung, công ty Equinor nói riêng đã có nhiều kinh nghiệm phát triển để chia sẻ kiến thức về chính sách, công nghệ, bài học điển hình đã triển khai thành công và hỗ trợ tìm kiếm mô hình phát triển phù hợp nhất với điều kiện của Việt Nam.
Phát biểu tại Hội thảo, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, Bà Grete Lochen cho biết: Việc phát triển điện gió ngoài khơi góp phần quan trọng trong việc chống biến đổi khí hậu quy mô toán cầu, Na Uy là quốc gia đi đầu trong lĩnh vực này, cả về công nghệ và tri thức. Na Uy có nhiều kinh nghiệm trong lắp đặt các công trình dầu khí ngoài khơi. Tất cả những kinh nghiệm và công nghệ này có thể được ứng dụng hiệu quả trong ngành điện gió ngoài khơi hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam.
Việc công ty năng lượng lớn nhất Na Uy là Công ty Equinor tại Việt Nam chính thức khai trương văn phòng đại diện tại Hà Nội, đây là dịp để hợp tác giữa Việt Nam và Na Uy trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi tốt hơn. Điều này cũng giúp nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn trong nước; xây dựng một chuỗi cung ứng mạnh mẽ trong nước của ngành điện gió ngoài khơi; tạo thêm nhiều việc làm có kỹ năng trong nước; sản xuất điện với chi phí thấp hơn...
Đồng thời, bà Grete Lochen cũng đưa ra nhận xét về việc Việt Nam nên xem xét cơ chế phát triển điện gió ngoài khơi của các quốc gia khác song song với quá trình xây dựng chính sách. Đây là cách mà Na Uy đã rất thành công với ngành dầu khí vào thập niên 70, thế kỷ trước.
Bổ sung vấn đề này, Bà Anita H. Holgersen, Giám đốc cấp cao Công ty Equinor tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam có nhiều tiềm năng, nguồn tài nguyên gió lớn nhất châu Á. Đồng thời, Việt Nam có nhiều kinh nghiệm từ ngành dầu khí, tàu biển, hàng hải, cơ khí… những yếu tố nền tảng hỗ trợ cho việc phát triển điện gió ngoài khơi. Công ty Equinor thành lập 1972, từ doanh nghiệp dầu khí của Na Uy, việc phát triển lĩnh vực điện gió ngoài khơi cũng phải học hỏi kinh nghiệm từ các đối tác lớn như Philip, BP...
Đến năm 1986, Công ty Equinor đã vận hành doanh nghiệp điện gió ngoài khơi đầu tiên, từ dự án đó, tới nay Công ty Equinor đã có nhiều dự án trên phạm vi thế giới. Công ty Equinor hiện có 3000 chuyên gia, để phát triển, vận hành các dự án chúng tôi đã hợp tác, phát triển, hướng tới thành công cùng nhau. Bà Anita H. Holgersen cho biết thêm.
Ông Phạm Nguyên Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo - Bộ Công Thương cho hay, Việt Nam có đường bờ biển trải dài, tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam vô cùng lớn. Xu hướng phát triển điện gió ngoài khơi có quy mô phát triển, giá thành cạnh tranh so với LNG.
Mặt khác, việc ngành dầu khí đã có sẵn cơ sở hạ tầng khai thác, chế biến, cùng với đó năng lực thiết kế, thi công sẽ đáp ứng việc cung ứng cho dự án điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, đường bờ biển trải dài khiến việc truyền tải liên vùng, cùng với việc thiếu cảng biển chuyên dụng phục vụ điện gió ngoài khơi cần đầu tư hơn nữa.
Cũng theo ông Hùng, với việc đầu tư vào hệ thống truyền tải cũng như điều độ thông minh, điện gió ngoài khơi hoàn toàn có tiềm năng để trở thành một trong những nguồn cung chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai, qua đó giảm sự lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.
Hiện nay, phạm vi quản lý biển dưới 6 hải lý thì thuộc cấp tỉnh, nhưng trên 6 hải lý thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng với đó, việc phát triển điện gió ngoài khơi là vấn đề Quy hoạch không gian biển.
Trong khuôn khổ Hội thảo về “Kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi” cũng diễn ra hỏi đáp đại diện các bên, đại diện Pháp lý, Kỹ thuật phía Công ty Equinor đã đưa ra những phần trả lời thiết thực. Đặc biệt là những kinh nghiệm quốc tế mà Công ty Equinor đã và đang thực hiện các dự án điện gió ngoài khơi tại Na Uy và các quốc gia khác.