Ngày 17/8, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng chủ trì Hội nghị lần thứ tư của Hội đồng.
Cùng tham dự Hội nghị có các đồng chí: Bùi Thị Minh Hoài, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội; các Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Lê Thành Long; các thành viên Hội đồng, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng.
Các đại biểu đã tập trung rà soát các công việc, nhiệm vụ ưu tiên triển khai thực hiện quy hoạch, đánh giá khó khăn, thách thức, vướng mắc để xác định phương hướng, giải pháp khắc phục, triển khai hiệu quả Quy hoạch vùng với mục tiêu đưa KTXH vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp tục phát triển nhanh, toàn diện, chất lượng và bền vững.
Nhiều kết quả tích cực, nổi bật
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản nhất trí với nội dung báo cáo và các ý kiến, tham luận tâm huyết, sát thực tiễn, sâu sắc của các đại biểu, giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ khẩn trương tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng, hoàn thiện dự thảo Kết luận của Chủ tịch Hội đồng.
Thủ tướng nhấn mạnh, vùng Đồng bằng sông Hồng có vị trí rất quan trọng, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo, đối ngoại, là cửa ngõ phía bắc của đất nước, là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hoá quốc tế và là vùng đất có tiềm năng phát triển rất lớn, là cửa ngõ của ASEAN vào Trung Quốc.
Việc phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng nhanh, toàn diện, bền vững là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng, với nhiều khó khăn, thách thức, kỳ vọng và trách nhiệm, góp phần hoàn thành Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đại hội Đảng các cấp của các tỉnh, thành phố trong vùng đã đề ra.
Nhấn mạnh một số nội dung, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ những kết quả tích cực, nổi bật trong phát triển KTXH của vùng Đồng bằng sông Hồng thời gian qua.
Theo đó, tăng trưởng kinh tế 6 tháng năm 2024 đạt 7,21%, cao hơn so với bình quân chung cả nước (6,42%) và vùng Đông Nam Bộ (5,58%). Tổng thu NSNN 7 tháng đạt 521,059 nghìn tỷ đồng, cao nhất cả nước, chiếm 41% tổng thu NSNN cả nước. Giá trị xuất khẩu 7 tháng đạt trên 80,04 tỷ USD, đứng thứ nhất cả nước, chiếm 35% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (227,5 tỷ USD).
Giải ngân đầu tư công 7 tháng đạt 55.757 tỷ đồng, cao nhất cả nước, đạt 31,08% kế hoạch. Trong 7 tháng, có 29.611 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và 14.319 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng lần lượt 3,39% và 6,87% so với cùng kỳ 2023, đứng thứ 2 cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ). Vùng Đồng bằng sông Hồng dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới, tính đến hết ngày 20/7/2024 là 5.787 triệu USD với 645 dự án cấp mới.
Đã phê duyệt quy hoạch vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và quy hoạch 10/11 địa phương. Ổn định chính trị được giữ vững, quốc phòng an ninh được bảo đảm, đối ngoại và hội nhập được đẩy mạnh.
Ghi nhận, biểu dương đóng góp của vùng vào KTXH của cả nước, Thủ tướng cho rằng các kết quả trên có được là nhờ quyết tâm, nỗ lực và sự trách nhiệm cao của các đồng chí lãnh đạo, nhân dân và doanh nghiệp của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững
Bên cạnh những kết quả rất tích cực, Thủ tướng chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức của Vùng.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; khả năng chống chịu và ứng phó trước các yếu tố tiêu cực từ bên ngoài chưa cao.
Khoa học công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy phát triển KTXH. Chưa hình thành được nhiều doanh nghiệp lớn, làm chủ công nghệ ở các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, sản xuất chip, chất bán dẫn... Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu.
Các nội dung liên kết vùng quan trọng (như: Liên kết trong hạ tầng giao thông liên vùng và khu vực, nhất là đường sắt; liên kết đầu tư phát triển; khả năng kết nối, tích hợp kinh tế tỉnh, thành phố vào chuỗi giá trị toàn cầu) còn hạn chế.
Hỗ trợ các doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong việc hình thành cụm liên kết ngành; liên kết trong đào tạo và sử dụng lao động; xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin, hợp tác thu hút đầu tư, xử lý môi trường các đô thị và cấp vùng...
An sinh xã hội, phúc lợi xã hội có nhiều tiến bộ nhưng chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ, chưa đồng đều.
Về tình hình triển khai các hoạt động điều phối vùng, Thủ tướng nêu rõ, từ Hội nghị lần thứ ba (ngày 9/5/2024) đến nay, đã hoàn thành thêm 3 nhiệm vụ là: Luật Thủ đô (sửa đổi); hoàn thành quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch điều phối vùng năm 2024 của Hội đồng điều phối vùng.
Có 5 nhiệm vụ đã hoàn thành dự thảo và đã xin ý kiến các bộ, địa phương liên quan: Báo cáo rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành để điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển 6 vùng KTXH; Đề án phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp sản xuất - chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy hải sản và thực phẩm vùng Đồng bằng sông Hồng; Đề án xây dựng cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp mới cho vùng Đồng bằng sông Hồng; hoàn thiện quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; Kế hoạch thực hiện quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng.
Dự án Đầu tư xây dựng cầu Bến Rừng nối huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng và thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành thông xe và đưa vào sử dụng từ ngày 17/7/2024, góp phần tạo hệ thống kết nối giao thông liên vùng, kết nối Hải Phòng - Quảng Ninh, nâng cao năng lực phục vụ giao thông, đáp ứng nhu cầu vận tải.
Thủ tướng hoan nghênh nỗ lực của các đồng chí thành viên Hội đồng điều phối vùng cùng các bộ, ngành, địa phương liên quan để giúp hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng trên.
Về quan điểm, định hướng triển khai quy hoạch và phát triển KTXH vùng ĐBSH thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Điều hành phải linh hoạt, hiệu quả trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Coi con người là trung tâm, chủ thể và nguồn lực, động lực của sự phát triển. Triển khai Quy hoạch và phát triển vùng phải đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân, doanh nghiệp.
Tuân thủ nghiêm và triển khai đồng bộ quy hoạch; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương. Phát huy mạnh mẽ dân chủ, trí tuệ tập thể; tổ chức thực hiện quy hoạch khoa học, bài bản, có trọng tâm, trọng điểm.
Bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KTXH với bảo đảm quốc phòng, an ninh biên giới, vùng biển và hải đảo; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, Trung ương và địa phương, Nhà nước và xã hội. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.
Làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới; phát triển kinh tế theo chiều sâu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại gắn với tổ chức không gian hợp lý, hiệu quả, thống nhất, liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế.
Về quan điểm triển khai hoạt động của Hội đồng điều phối vùng,Thủ tướng yêu cầu bám sát, triển khai hiệu quả Nghị quyết số 30 của Bộ Chính trị; các nhiệm vụ giải pháp cụ thể tại Chương trình hành động của Chính phủ (Nghị quyết số 14); các nhiệm vụ, đề án tại Kế hoạch điều phối vùng năm 2024.
Tổ chức thực hiện, hoạt động hiệu quả, thực chất, không hình thức, không hành chính; "nói thật, làm thật, hiệu quả thật". Theo Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Hội đồng điều phối vùng ĐBSH, có 18 nhiệm vụ, đề án cụ thể các bộ, cơ quan cần tập trung thực hiện.
Thủ tướng đề nghị Bộ KH&ĐT, cơ quan thường trực Hội đồng điều phối vùng và Văn phòng Chính phủ theo dõi sát sao, đôn đốc các cơ quan, địa phương liên quan đảm bảo tiến độ thực hiện các nhiệm vụ đã được giao, không để chậm hay kéo dài thời gian thực hiện các nhiệm vụ sang năm 2025. Trường hợp không hoàn thành đúng thời hạn, cần báo cáo lại cấp có thẩm quyền lý do không hoàn thành, lý do gia hạn thời gian thực hiện.
Đổi mới tư duy điều phối, chú trọng hơn nữa tới vai trò liên kết, kết nối của vùng Đồng bằng sông Hồng đối với các vùng lân cận theo tinh thần "nguồn lực bắt nguồn tư duy, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân", "chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh". Chủ động nghiên cứu, đề xuất về thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy liên kết, phát triển vùng, phát huy các tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của vùng.
Tập trung thực hiện "5 tiên phong"
Thủ tướng đề nghị vùng Đồng bằng sông Hồng thực hiện "5 tiên phong" gồm:
Thứ nhất, tiên phong trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, kinh tế ban đêm.
Thứ hai, tiên phong trong cải cách hành chính, phân cấp phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát.
Thứ ba, tiên phong lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức, làm ảnh hưởng và làm tăng chi phí tuân thủ với người dân và doanh nghiệp; đẩy mạnh thực hiện Đề án 06 theo chỉ đạo của Chính phủ.
Thứ tư, tiên phong trong huy động mọi nguồn lực xã hội, nhất là qua hợp tác công tư để phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm, tiên phong trong thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan, địa phương rà soát lại các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra theo Nghị quyết Đại hội XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, xác định các mục tiêu sẽ đạt được, chưa đạt và khó đạt để có giải pháp phù hợp, phân công công việc rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ kết quả.
Cùng với đó, khẩn trương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch vùng trên tinh thần "thông thoáng về chính sách, thông suốt về hạ tầng và thông minh về quản trị". Tập trung phát triển theo hướng 1 vùng động lực quốc gia (gồm: TP. Hà Nội và các địa bàn dọc theo trục quốc lộ 5 và quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh), 2 tiểu vùng (phía bắc sông Hồng và phía nam sông Hồng), 4 cực tăng trưởng (gồm Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Phòng), 5 hành lang kinh tế trong nước và kết nối quốc tế (gồm các hành lang kinh tế: (i) Bắc Ninh - Hà Nội - Hà Nam - Ninh Bình; (ii) Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; (iii) Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng; (iv) ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình; (v) Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội) với tất cả hình thức kết nối giao thông phát triển bậc nhất cả nước.
Tập trung cơ cấu lại các ngành kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại, ưu tiên các ngành, lĩnh vực có thế mạnh.
Về công nghiệp, phát triển công nghiệp công nghệ cao, tập trung vào chế biến, chế tạo; ưu tiên công nghiệp cơ điện tử, chip bán dẫn, sản phẩm công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, vật liệu mới...
Về dịch vụ, phát triển vùng trở thành trung tâm dịch vụ hiện đại theo chuẩn mực quốc tế và đa dạng loại hình dịch vụ; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, các dịch vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, giáo dục, đào tạo, y tế…
Về nông nghiệp, phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả, bền vững, sinh thái theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Ưu tiên đầu tư các dự án động lực, trọng điểm có tác động trực tiếp đến phát triển KTXH, có tính lan tỏa lớn, có tính kết nối quốc tế, liên vùng; phát triển các nguồn cung và lưới điện, nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo, hạ tầng thủy lợi.
Các bộ, ngành, địa phương được giao chủ trì khẩn trương hoàn thành thủ tục để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án vùng và liên vùng như dự án tuyến đường sắt đô thị tuyến số 2, đoạn Nam Thăng Long- Trần Hưng Đạo; các dự án thành phần đầu tư xây dựng đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng; các dự án tại Cảng hàng không quốc tế Cát Bi; đề xuất các cơ chế, chính sách, gồm cả cơ chế, chính sách đặc thù, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, thu hút nhân tài, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ. Phát huy mạnh mẽ các trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái tự nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu. Chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, con người, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, nâng cao chất lượng cuộc sống, môi trường sống lành mạnh cho người dân; phát triển du lịch, các địa phương, bộ ngành liên quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ đề cử "Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc" là di sản thế giới.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, chuẩn bị tốt các dự án trọng điểm, quan trọng để thu hút hiệu quả các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược.
Đẩy mạnh các hoạt động điều phối vùng, cụ thể là triển khai thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách đặc thù tại Nghị quyết số 106/2023/QH15 của Quốc hội và các cơ chế, chính sách khác; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, thu hút FDI, nhất là các nhà đầu tư công nghệ; thúc đẩy đầu tư PPP, nhất là trong phát triển các dự án hạ tầng giao thông của vùng và liên vùng; đẩy mạnh các hoạt động liên kết phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng KTXH, ưu tiên cho giao thông; đẩy mạnh liên kết các chuỗi đô thị, chuỗi cung ứng, logistics, dịch vụ chất lượng cao; phát huy các miền di sản với mô hình "một cung đường, nhiều điểm đến"; đẩy mạnh chuyển đổi số, chia sẻ cơ sở dữ liệu.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn các dự án vùng và có tính chất vùng quan trọng theo các nghị quyết của Bộ Chính trị và theo quy hoạch vùng, tiếp tục ưu tiên nguồn vốn bố trí trong kế hoạch trung hạn 2026-2030, trong đó dành nguồn vốn phù hợp để làm công tác chuẩn bị đầu tư để bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026-2030 nhằm rút ngắn thời gian hoàn thiện thủ tục đầu tư và đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án.
Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm đưa vào chương trình làm việc của Hội đồng vùng để thảo luận, thống nhất triển khai trong thời gian tới, trong đó có chú ý nhiệm vụ về rà soát các cơ chế, chính sách về pháp luật, các cơ chế huy động nguồn lực, thu hút đầu tư, xử lý môi trường, triển khai các dự án cấp vùng.
Nhấn mạnh tinh thần tiến công trong triển khai các nhiệm vụ, nhất là với các mục tiêu chưa đạt thì phải có giải pháp tăng tốc, đột phá, Thủ tướng lưu ý các địa phương đặc biệt chú trọng thúc đẩy đầu tư công, góp ý vào dự thảo một luật sửa nhiều luật trong các lĩnh vực tài chính, kế hoạch và đầu tư. Đồng thời, Thủ tướng mong các địa phương triển khai thực hiện bằng được mục tiêu đã đề ra về phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân.