Hiện cả miền Bắc chỉ có duy nhất một lò đốt rác công nghiệp công suất nhỏ (4,8-5 tấn/ngày), trong khi chỉ riêng ở Hà Nội, mỗi ngày "sản sinh" khoảng 30.000 tấn chất thải công nghiệp nguy hại cần xử lý trong tổng số gần 300 tấn chất thải công nghiệp/ngày. Ước tính, để xử lý rác, Hà Nội cần lò đốt lớn gấp 10 lần hiện nay. Rác có nhiều loại, nên cũng có nhiều cách xử lý như chôn, đốt, tái sinh...
Mặt khác, khối lượng chất thải ngày càng gia tăng (hơn 10%/năm), trong khi đó, công nghệ xử lý lạc hậu, công tác quản lý cũng như ý thức của cộng đồng dân cư về công tác vệ sinh môi trường chưa cao, chất thải chưa được phân loại tại nguồn.
Vấn đề xử lý chất thải ở các khu, cụm công nghiệp (KCCN)
Theo thống kê của cơ quan chức năng, cả nước hiện mới có khoảng 30% KCN, khu chế xuất, cụm CN-TTCN có hệ thống xử lý nước thải và vấn đề bảo vệ môi trường, quản lý môi trường tại những nơi này lại chưa được quan tâm đúng mức, nếu không nói là có phần thả nổi.
Hiện nay, KCCN chưa có quy hoạch và chưa xây dựng được các điểm trung chuyển chất thải công nghiệp (CTCN). Trong đó, việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại chưa thực sự đi vào nền nếp và còn nhiều bất cập... Nhiều doanh nghiệp đã thuê những tổ chức, cá nhân không có chức năng, hoặc không có đủ năng lực để thu gom chất thải rắn công nghiệp, dẫn đến tình trạng đổ chất thải bừa bãi, không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn của các cơ sở sản xuất chưa thực hiện tốt, có nhiều chất thải rắn còn lẫn trong phế liệu, gây khó khăn cho công tác quản lý.
Ô nhiễm ở các làng nghề vẫn còn bỏ ngỏ
Sự phát triển của các làng nghề góp phần không nhỏ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu nhập quốc nội, với 90% tổng giá trị sản phẩm được tiêu thụ trong nước, còn lại là xuất khẩu. Song, sự xuống cấp của môi trường làng nghề đã ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng đang là vấn đề đáng lo ngại.
Hiện cả nước có khoảng 1.450 làng nghề. Hầu hết các làng nghề đều sử dụng than củi và than đá, gây nên ô nhiễm không khí như bụi, hơi nước, SO2, CO2, CO và NOx là hết sức phổ biến. Trong đó, các khí CO2, NOx là các tác nhân gây hiệu ứng nhà kính. Ngoài ra, các khí thải độc hại này còn được sinh ra trong quá trình phân hủy yếm khí các hợp chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải hữu cơ dạng rắn như H2S, NH3, CH4...
Các chất thải độc hại khó phân hủy cũng là một vấn đề nóng bỏng đặt ra cho các làng nghề, nhất là các làng nghề tái chế kim loại và dệt nhuộm, thuộc da. Kết quả phân tích chất lượng nước thải cho thấy, hàm lượng độc hại đang ở mức đáng báo động, vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Tại các làng nghề tái chế kim loại, có nơi hàm lượng Pb2+ vượt tiêu chuẩn cho phép tới 4,1 lần, Cu2+- vượt quá 3,25 lần. Hàm lượng Phenol trong nước thải tại làng nghề tái chế giấy cũng vượt quá tiêu chuẩn cho phép 10 lần. Các chất thải rắn nguy hại không được các làng nghề xử lý đến nơi đến chốn cũng đang gây ô nhiễm đất và nước. Hàng ngày, làng nghề tái chế giấy Dương Ô (Bắc Ninh) thải ra 4,5- 5 tấn chất thải rắn như xỉ than, nilon, đinh, ghim; làng nghề tái chế nhựa Trung Văn (Hà Nội) thải ra 3,5 tấn rác/ngày; làng nghề cơ khí Đa Hội (Bắc Ninh) thải ra khoảng 11 tấn xỉ, sắt, kim loại vụn, than, phế liệu mỗi ngày; làng nghề cơ khí Vân Chàng (Nam Định) thải ra 7 tấn/ngày, trong đó có nhiều chất thải chứa kim loại, xỉ than, thải chứa dầu mỡ khoáng, trong khi các chất thải rắn được thu gom rất thủ công, rồi đem chôn lấp đơn giản ở các bãi chôn lấp hở, thậm chí bị thải bỏ và đốt bừa bãi ngay trên các con đê làng, hoặc đổ xuống dòng sông.
Những bất cập từ quản lý nhà nước
Theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, khi các KCN có tỷ lệ lấp đầy từ 60 - 70% thì mới phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nhận xét về quy định này, các chuyên gia môi trường, các chủ đầu tư và khai thác hạ tầng KCN nhận định là không sát với thực tiễn phát triển ngành công nghiệp và chưa theo kịp nguy cơ ô nhiễm môi trường đang gia tăng hiện nay. Bên cạnh đó, các công ty kinh doanh hạ tầng mới chỉ chú trọng đến việc kinh doanh cho thuê đất, lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường họ lại rất ngại đầu tư, vì chưa đủ năng lực kiểm soát chất lượng chất thải, nước thải sau xử lý. Mặt khác, do chưa coi việc xử lý ô nhiễm môi trường là một lĩnh vực có thể kinh doanh, cho nên họ chưa mạnh dạn đầu tư.
Từ góc độ thực thi Luật BVMT chúng ta có thể nhận thấy, năng lực quản lý bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, cụ thể: Tuy cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được thành lập ở các cấp, nhưng còn quá mỏng về đội ngũ cán bộ, có tỉnh mới chỉ có 3 cán bộ, cấp huyện có ít cán bộ môi trường, thậm chí còn kiêm nhiệm.
Đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu cấp bách về bảo vệ môi trường, thiếu các cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Nhiều chế tài đặt ra như xử phạt những hành vi gây ô nhiễm môi trường, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng còn mang tính hình thức, nên không có tác dụng ngăn chặn.
Biện pháp khắc phục
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường tại các khu, cụm công nghiệp nói chung và ở các cơ sở sản xuất nói riêng, nhằm thực hiện quá trình phát triển bền vững, cần phải thực hiện một số giải pháp đồng bộ sau: Quy hoạch khu xử lý chất thải rắn công nghiệp và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải rắn nói riêng và dịch vụ môi trường nói chung; tăng cường kiểm tra, đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng ở các khu, cụm công nghiệp, đặc biệt chú trọng đến hệ thống thu gom, xử lý nước thải công nghiệp và điểm trung chuyển chất thải rắn công nghiệp; khi triển khai, phê duyệt các dự án đầu tư cần chú ý đến vấn đề môi trường, không thiên lệch quá về mục tiêu lợi ích kinh tế; chấp hành tốt quy định về thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi phê duyệt dự án; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường; tăng cường công tác thanh, kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất và kiên quyết xử lý những đơn vị vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường; thực hiện tốt việc công khai thông tin về môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là vấn đề công khai về tình hình chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, nhằm khuyến khích các đơn vị thực hiện; tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở các cấp, trong đó, chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ chuyên môn, cán bộ lãnh đạo cơ sở...