Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) khẳng định, Hoa Kỳ luôn là đối tác nhập khẩu hàng đầu của thuỷ sản Việt Nam.
Trong đó, các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực sang Hoa Kỳ đều có doanh số tăng đột phá sau 10 năm. Cụ thể, xuất khẩu tôm tăng 77% từ 454 triệu USD năm 2012 lên 807 triệu USD vào năm 2022, trong đó, xuất khẩu tôm đã chạm mức đỉnh trên 1 tỷ USD vào năm 2021; cá tra tăng 50% từ 359 triệu USD lên 527 triệu USD, cá ngừ tăng gấp đôi từ 244 triệu USD lên 489 triệu USD. Đây là ba ngành hàng chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Hoa Kỳ.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gia tăng nhập khẩu nhiều sản phẩm thuỷ sản khác từ Việt Nam như cua, ghẹ, ngao, các loài cá biển, cá nước ngọt khác.
Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt trên 1 tỷ USD, giảm 39% so với cùng kỳ năm 2022, khó khăn chung của thị trường thế giới như lạm phát, giá trung bình xuất khẩu giảm.
Riêng với thuỷ sản, vấn đề tồn kho của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ từ nửa cuối năm 2022 cũng là một nguyên nhân khiến cho nhập khẩu của thị trường này chậm lại, nhất là đối với 2 mặt hàng chủ lực là tôm và cá tra. Vì vậy, đến hết tháng 8/2023, xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ giảm 30%, xuất khẩu cá tra giảm 58% so với cùng kỳ năm 2022.
Đối với mặt hàng tôm, ông Phạm Quang Huy - Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ tôm lớn trên thế giới nhưng sản xuất tôm ở Hoa Kỳ chỉ đáp ứng 10% nhu cầu nội địa và phải nhập khẩu tới 90%; trong đó, 50-60% là tôm nuôi, nước ấm/nước lợ và đông lạnh.
Để đẩy mạnh xuất khẩu tôm vào thị trường Hoa Kỳ, ông Phạm Quang Huy khuyến nghị doanh nghiệp cần tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị; phát triển mô hình nuôi tôm giúp hạ giá thành sản phẩm, tiệm cận với giá của đối thủ cạnh tranh.
Cùng với đó, tuân thủ quy định về tiêu chuẩn sản xuất, an toàn thực phẩm, ghi nhãn, đăng ký tiêu chuẩn về môi trường, lao động, nguồn gốc xuất xứ; tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng, nắm rõ quy định và yêu cầu của liên bang cũng như tiểu bang; sử dụng kênh thương mại điện tử…
Không chỉ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản số 1 của Việt Nam, Hoa Kỳ đồng thời là đối tác cung cấp một số mặt hàng hải sản quan trọng cho thị trường Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ sang Việt Nam khoảng trên 60 triệu USD mỗi năm, với những mặt hàng chính gồm cá hồi, cá trích, cá bơn, cá minh thái, cá tuyết…
Phần lớn các hải sản đó được các đối tác Hoa Kỳ xuất khẩu sang Việt Nam để gia công, chế biến và xuất khẩu trở lại thị trường này. Hoạt động này cũng mang thêm doanh thu cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo việc làm ổn định cho công nhân và tận dụng được năng lực và công suất chế biến của các nhà máy trong nước.
Hoa Kỳ đang và sẽ tiếp tục là đối tác chiến lược hàng đầu của thuỷ sản Việt Nam bởi vị thế của một cường quốc kinh tế lớn và có dân số lớn thứ 3 thế giới và có tỷ lệ dân thành thị ngày càng gia tăng, đặc biệt tăng trưởng số lượng di dân ở đất nước này được dự báo ngày càng cao. Những đặc tính của thị trường này sẽ mang lại cơ hội tăng thị phần cho thuỷ sản Việt Nam, không chỉ phát triển các sản phẩm xuất khẩu truyền thống mà cả phân khúc sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sẵn, phù hợp cho các gia đình thành thị, cũng như các chủng loại sản phẩm có giá phù hợp cho tầng lớp thu nhập trung bình hoặc di dân.
Đặc biệt là sau chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Joe Biden và Đoàn đại biểu cấp cao Hoa Kỳ, cùng với Tuyên bố chung về việc nâng tầm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì Hoà bình, Hợp tác và Phát triển bền vững, kỳ vọng là hợp tác kinh tế thương mại, trong đó thương mại thuỷ sản của Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ có bước đột phá mạnh mẽ và bền vững hơn.
Khẳng định Việt Nam - Hoa Kỳ còn nhiều dư địa để hợp tác và phát triển, tại buổi làm việc trong khuôn khổ Hội đồng TIFA với bà Dawn Shackleford, Trợ lý Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) phụ trách khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết: Việt Nam luôn coi Hoa Kỳ là đối tác quan trọng của Việt Nam và mong muốn hai bên tiếp tục hợp tác, xây dựng cũng như đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, thực chất.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều khó khăn, thách thức như hiện nay, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng tại thị trường xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Hoa Kỳ nói riêng đã xuất hiện nhiều xu hướng mới, nhất là giá cả.
Bên cạnh đó, chất lượng và yêu cầu liên quan tới bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, tiêu chuẩn "sản xuất xanh," chuỗi cung ứng "sạch và bền vững ngày càng cao". Điều này đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng thích ứng được với những thay đổi đó. Vì vậy, doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ cần xác định rõ chiến lược sản phẩm, đối tác, kênh phân phối.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ các quy định, rào cản xuất khẩu, khả năng liên quan tới các vụ việc phòng vệ thương mại; đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào có nguồn gốc rõ ràng, không ảnh hưởng tới môi trường hay sử dụng lao động cưỡng bức; đồng thời từng bước nghiên cứu nâng cấp cơ sở sản xuất, nhà máy theo các "tiêu chuẩn sản xuất xanh".
Doanh nghiệp cần tích cực tham gia chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, kết nối với cơ quan liên quan, tạo uy tín và gây dựng niềm tin với khách hàng Hoa Kỳ.
Để phát triển thị trường, ngoài việc hợp tác với các nhà nhập khẩu, kênh phân phối lớn, doanh nghiệp cũng cần áp dụng chiến lược đa dạng hóa khách hàng và tích cực tìm kiếm các thị trường ngách, để giảm thiểu rủi ro.
Đáng lưu ý, ngoài việc hợp tác với nhà nhập khẩu, kênh phân phối lớn, doanh nghiệp cũng cần áp dụng chiến lược đa dạng hóa khách hàng và tích cực tìm kiếm thị trường ngách giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động xuất khẩu.