[eMagazine] Nâng năng lực cạnh tranh để doanh nghiệp “bắt nhịp” luật chơi mới của chuỗi cung ứng
04/12/2025 lúc 15:30 (GMT)

[eMagazine] Nâng năng lực cạnh tranh để doanh nghiệp “bắt nhịp” luật chơi mới của chuỗi cung ứng

hội nhập

Doanh nghiệp

Theo bà Trần Thị Thanh Tâm - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (VCCI), năm 2025 đánh dấu một giai đoạn mới của hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu vào các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP…, mở ra cánh cửa tiếp cận những thị trường rộng lớn, tiêu chuẩn cao, hỗ trợ giảm thuế quan và gia tăng hiện diện trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Cùng với tiến trình hội nhập là xu hướng dịch chuyển và tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu dưới tác động của biến động địa chính trị, yêu cầu xanh hóa, logistics bền vững và chuyển đổi số. Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm đến tiềm năng trong chiến lược “Trung Quốc + 1” của các tập đoàn đa quốc gia, với cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư mới, mở rộng sản xuất và tham gia sâu hơn vào mạng lưới cung ứng khu vực, nhất là trong các lĩnh vực điện tử, thiết bị công nghệ, dệt may, da giày, logistics, năng lượng xanh…

Thaco Trường Hải

Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là những thách thức không nhỏ. Áp lực cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực ngày càng gia tăng, trong khi các thị trường cao cấp như EU, Mỹ, Nhật Bản siết chặt yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, quản trị chất lượng, phát triển xanh, phát thải thấp, minh bạch chuỗi cung ứng.

Doanh nghiệp Việt - với khoảng 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa - còn hạn chế về năng lực công nghệ, năng suất lao động, khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn và dài hạn.

công nghiệp hỗ trợ

Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ vẫn thiếu liên kết, thiếu đầu tư chiều sâu, thiếu nhân lực kỹ năng cao, khiến nhiều doanh nghiệp phải phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu và khó vươn lên trở thành mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, câu hỏi lớn đặt ra là: làm sao để doanh nghiệp Việt Nam không chỉ hòa nhập là còn “vươn ra thế giới” một cách vững vàng và tự tin?

Doanh nghiệp

TS. Trịnh Quốc Vinh - Ủy viên Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) phân tích sự khác biệt căn bản của giai đoạn hội nhập hiện nay so với thời điểm Việt Nam gia nhập WTO hay CPTPP nằm ở sự thay đổi chiến lược của dòng chảy kinh tế toàn cầu.

Nếu trước đây, dòng vốn đầu tư quốc tế tìm đến những quốc gia có chi phí sản xuất thấp nhất, “hiệu quả chi phí là vua”, thì hiện nay yếu tố an ninh chuỗi cung ứng, khả năng tự chủ và sức chống chịu trước rủi ro được đặt lên hàng đầu. Thế giới đang chuyển từ tư duy “Just-in-time” (tối ưu hóa tồn kho, giảm chi phí tối đa) sang “Just-in-case” (chủ động dự phòng, phân tán rủi ro).

chuỗi cung ứng
chuỗi cung ứng
 

Trong bối cảnh đó, các tập đoàn đa quốc gia xem xét lại chiến lược đặt nhà máy chỉ dựa trên chi phí thấp. Thay vào đó, họ ưu tiên những quốc gia có môi trường chính sách ổn định, kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, nguồn nhân lực chất lượng, năng lực công nghệ và đặc biệt là cam kết mạnh mẽ với thương mại tự do, phát triển xanh và bền vững.

Với Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu năm 2024 ước đạt 406 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Song, giá trị gia tăng nội địa mới chỉ ở mức khoảng 20 - 25%, phần lớn vẫn dựa trên gia công, cho thấy nền kinh tế tham gia sâu vào chuỗi giá trị nhưng chủ yếu ở những công đoạn có giá trị gia tăng thấp.

Thách thức lớn nhất, theo TS. Vinh, là áp lực từ “tiêu chuẩn xanh”. Các rào cản kỹ thuật như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU hay Đạo luật cạnh tranh sạch của Mỹ đang buộc các ngành thép, nhôm, dệt may, da giày của Việt Nam phải chuyển đổi công nghệ và cách thức vận hành theo hướng giảm phát thải, tăng minh bạch dữ liệu carbon. Đây không còn là khẩu hiệu mà là “giấy thông hành” để hàng hóa Việt có thể tiếp tục hiện diện ở các thị trường chủ lực.

tiêu chuẩn xanh

Cùng lúc, nếu nhìn rộng ra thế giới, nhiều nền kinh tế công nghiệp đang đối mặt với bài toán chủ quyền công nghệ và dữ liệu. Việc châu Âu thành lập Liên minh Công nghiệp Công nghệ Chủ quyền (ESTIA) để xây dựng năng lực nội khối về điện toán đám mây, hạ tầng số, bảo mật… cho thấy xu hướng các quốc gia chủ động củng cố nền tảng công nghệ, giảm phụ thuộc vào bên ngoài. Bài học này càng nhấn mạnh rằng muốn nâng chuẩn sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, không thể bỏ qua năng lực công nghệ cốt lõi.

Doanh nghiệp

Ở cấp độ doanh nghiệp, khoảng cách giữa yêu cầu của chuỗi cung ứng quốc tế và năng lực thực tế của phần lớn doanh nghiệp trong nước thể hiện khá rõ.

Ông Nguyễn Phương Thắng - Giám đốc Trung tâm Hiệu suất và Tăng trưởng P&Q Solutions cho biết, đa phần doanh nghiệp sản xuất Việt Nam hiện vẫn hoạt động ở “vùng trũng” của chuỗi giá trị, với quy mô nhỏ và vừa, mức độ tự động hóa thấp, phụ thuộc lớn vào lao động thủ công. Điều này dẫn đến năng suất lao động, hiệu suất sử dụng máy móc, khả năng kiểm soát quy trình và chất lượng sản phẩm đều thua kém đáng kể so với mặt bằng chung trong khu vực.

hạn chế
hạn chế

Nhiều nhà máy vẫn vận hành trên dây chuyền cũ, tiêu hao năng lượng lớn, thường xuyên dừng máy ngoài kế hoạch. Chi phí năng lượng, chi phí vận hành và thời gian chờ làm đội giá thành sản phẩm ngay từ khâu sản xuất. Khi bước vào vòng báo giá đầu tiên với các nhà mua hàng quốc tế, doanh nghiệp Việt thường mất lợi thế cạnh tranh vì giá thành khó “xuống sâu” như đối thủ.

Bên cạnh chi phí sản xuất, doanh nghiệp còn đối mặt với áp lực từ logistics, chi phí vận chuyển, nhập khẩu nguyên phụ liệu, kiểm định chất lượng, tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và pháp lý, tất cả đều góp phần bào mòn biên lợi nhuận. Trong khi đó, hơn 96% doanh nghiệp là nhỏ và siêu nhỏ nên việc đầu tư mới cho thiết bị, công nghệ, hệ thống quản trị hiện đại hay nhân sự chất lượng cao trở thành bài toán khó.

Một rào cản khác là tiêu chuẩn. Các thị trường cao cấp như EU, Mỹ, Nhật Bản ngày càng đặt ra yêu cầu khắt khe về an toàn sản phẩm, môi trường, truy xuất nguồn gốc, trách nhiệm xã hội, quản trị rủi ro. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt chưa xây dựng bài bản hệ thống quản lý chất lượng, chưa có thói quen ghi nhận và phân tích dữ liệu, tỷ lệ lỗi còn cao, quy trình vận hành thiếu ổn định. Điều này khiến sản phẩm khó vượt qua vòng đánh giá kỹ thuật, cho dù mức giá có thể cạnh tranh.

Công ty doanh nghiệp
Doanh nghiệp

Ở góc độ tiêu chuẩn và chứng nhận, ông Lê Xuân Trường - Chuyên gia, cố vấn quản lý, tư vấn tiêu chuẩn, mã số mã vạch và công nghệ cho rằng trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng, tiêu chuẩn quốc tế không chỉ là “tờ giấy” kỹ thuật mà đã trở thành “ngôn ngữ chung” của thương mại toàn cầu.

Nếu như trước đây, doanh nghiệp chỉ cần đáp ứng tiêu chuẩn trong nước là có thể đưa sản phẩm ra thị trường, thì nay để tiếp cận các thị trường khó tính như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia…, doanh nghiệp buộc phải đáp ứng các chuẩn mực quốc tế như ISO 9001, ISO 14001, HACCP, GMP, GlobalGAP, FSC, CE, FDA, IATF 16949… Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa vượt qua được hàng rào kỹ thuật.

chuẩn mực

Theo ông Trường, tiêu chuẩn hóa giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình, giảm thiểu lỗi, giảm lãng phí. Khi vận hành theo các tiêu chuẩn quốc tế, doanh nghiệp buộc phải kiểm soát rủi ro, cải tiến liên tục, vận hành hệ thống quản lý chất lượng ổn định và minh bạch. Nhờ đó, chi phí sản xuất được kiểm soát tốt hơn, năng suất tăng lên và niềm tin từ khách hàng, đối tác, nhà nhập khẩu được củng cố.

Chứng nhận quốc tế, vì thế, không chỉ là “tấm vé thông hành” để xuất khẩu mà còn là “tấm hộ chiếu” thể hiện năng lực nhà cung cấp. Doanh nghiệp “nói cùng ngôn ngữ” tiêu chuẩn với đối tác sẽ có cơ hội rộng mở hơn để tham gia chuỗi cung ứng, thậm chí có thể dịch chuyển vị thế từ nhà cung cấp cấp 2, cấp 3 lên cấp 1.

Cảng Chu Lai

Từ góc độ chính sách, thúc đẩy tiêu chuẩn hóa không chỉ là nhiệm vụ của doanh nghiệp mà còn là chiến lược quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn cần thường xuyên được cập nhật tiệm cận chuẩn mực quốc tế; các tổ chức chứng nhận cần nâng cao năng lực; đồng thời, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong tiếp cận, áp dụng tiêu chuẩn phải cụ thể, dễ tiếp cận hơn.

Doanh nghiệp

Các chuyên gia nhận định, muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp Việt không nhất thiết phải “đập đi làm lại” nhà máy hay đầu tư ngay lập tức những khoản vốn khổng lồ. Điều quan trọng hơn là thay đổi tư duy vận hành, bắt đầu từ những cải tiến căn bản nhưng có tác động lớn.

Thứ nhất, cần nâng cấp hệ thống quản trị sản xuất, áp dụng các phương pháp hiện đại như LEAN, Kaizen, 5S… để giảm lãng phí, tối ưu quy trình, rút ngắn thời gian chờ, tăng hiệu suất máy móc và nhân lực. Nhiều trường hợp thực tế cho thấy, khi áp dụng tốt LEAN, doanh nghiệp có thể tăng năng suất 15-30% mà không cần tăng thêm nhân sự.

Gia Lai

Thứ hai, song song với tối ưu vận hành, doanh nghiệp cần xây dựng và vận hành nghiêm túc các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, môi trường, an toàn lao động, truy xuất nguồn gốc… Đây là “bộ khung” để tiến tới tự động hóa, số hóa và kết nối sâu hơn với chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ số trong quản lý là xu thế không thể đảo ngược. Các hệ thống ERP, phần mềm quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, theo dõi hiệu suất thiết bị… giúp doanh nghiệp minh bạch dữ liệu, giảm phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân, hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu thời gian thực.

Thứ tư, liên kết chuỗi đóng vai trò then chốt. Tham gia cụm liên kết ngành, chương trình nhà cung cấp của các tập đoàn FDI, hợp tác với doanh nghiệp trong nước để chia sẻ đơn hàng, chia sẻ kinh nghiệm quản trị, cùng đầu tư công nghệ… là cách giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua hạn chế về quy mô, nâng dần năng lực cạnh tranh.

công nghiệp

Và cuối cùng, mọi nỗ lực cải tiến đều quay về yếu tố con người. Đầu tư cho đào tạo, xây dựng văn hóa cải tiến liên tục, trao quyền cho đội ngũ vận hành, thu hút và giữ chân nhân sự chất lượng cao là nền tảng lâu dài nhất. Khi người lao động hiểu, làm chủ và đồng hành với mục tiêu nâng chuẩn, các công cụ quản lý, công nghệ mới mới phát huy hiệu quả.

Doanh nghiệp

Ở tầm vĩ mô, Việt Nam đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược với nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, trong đó có Nghị quyết 59-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện, hiệu quả.

Bộ Công Thương hiện đang xây dựng Chương trình vươn ra thị trường toàn cầu (Go Global) giai đoạn 2026 - 2035, tập trung vào các nhóm giải pháp như: đổi mới tư duy hội nhập, chuyển từ tâm thế “tham gia gia công” sang “chủ động kiến tạo chuỗi giá trị”; phát triển đội ngũ doanh nghiệp dẫn dắt; làm chủ công nghệ thông qua quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích M&A để sở hữu công nghệ nguồn; nghiên cứu mô hình cơ quan tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp vươn ra thế giới…

Go Global

Về phía VCCI, Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đang triển khai nhiều chương trình đào tạo, tư vấn, kết nối nguồn lực tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống quản trị, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, như TS. Trịnh Quốc Vinh nhấn mạnh, chính sách chỉ là bệ phóng. Cơ hội là rất lớn, nhưng ‘khe cửa’ để bước vào chuỗi giá trị toàn cầu đang hẹp lại bởi các tiêu chuẩn cao. Để cất cánh, cần sự chủ động thay đổi từ chính nội tại doanh nghiệp.

Thaco Trường Hải
Thaco Trường Hải

Trong “luật chơi” mới của hội nhập, tiêu chuẩn, công nghệ, dữ liệu, xanh hóa và khả năng chống chịu được đặt lên hàng đầu, doanh nghiệp Việt chỉ có thể giữ vững vị thế nếu sở hữu năng lực thực chất. Tận dụng được làn sóng dịch chuyển hay để nó trôi qua, bỏ lỡ cơ hội nâng tầm, sẽ phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp dám và đủ quyết tâm đầu tư cho nội lực đến đâu.


Trang chủ

Bài mới

Xem nhiều

Multimedia

Tạp chí