Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 tăng 0,25% so với tháng trước
Theo Tổng cục Thống kê, một số địa phương thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT, tăng học phí theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP và giá gạo trong nước tiếp tục tăng theo giá gạo xuất khẩu là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2023 tăng 0,25% so với tháng trước.
So với tháng 12/2022, CPI tháng 11/2023 tăng 3,46% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,45%. Bình quân 11 tháng năm 2023, CPI tăng 3,22% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,25% của chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2023 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 2 nhóm hàng có chỉ số giá giảm, riêng nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình không biến động.
Trong số 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 2,9% (làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm), trong đó dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú tăng 2,27%; khám chữa bệnh nội trú tăng 5,13%. Nguyên nhân chủ yếu do một số địa phương triển khai áp dụng giá dịch vụ y tế mới theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.
Nhóm giáo dục tăng 0,38%, trong đó giá dịch vụ giáo dục tăng 0,42% do một số địa phương thực hiện tăng học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và một số trường đại học, cao đẳng công lập, dân lập, tư thục cũng tăng học phí năm học 2023-2024 để bảo đảm thu chi thường xuyên. Bên cạnh đó, giá vở, giấy viết các loại tháng 11/2023 tăng 0,04% so với tháng trước; giá bút viết tăng 0,1%; giá văn phòng phẩm và đồ dùng học tập khác tăng 0,17%.
Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,32%, tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ trang sức tăng 2,39%; dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 0,24%; dịch vụ cắt tóc, gội đầu tăng 0,51%; dịch vụ về hỉ tăng 0,36% do nhu cầu tăng.
Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,2% do chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm quần áo mùa đông tăng. Trong đó, giá vải các loại và mũ nón cùng tăng 0,15%; giày dép tăng 0,06%; quần áo may sẵn tăng 0,27%; dịch vụ may mặc tăng 0,21%; dịch vụ giày, dép tăng 0,25%.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,19% chủ yếu do tỷ giá đô la Mỹ tăng. Cụ thể, giá rượu bia tăng 0,16%; nước quả ép tăng 0,17%; nước giải khát có ga tăng 0,31% và thuốc hút tăng 0,19%.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,1%, trong đó: Lương thực tăng 2,31%; thực phẩm giảm 0,32%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,2%.
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%, chủ yếu tăng giá ở các mặt hàng: Cây, hoa cảnh tăng 1,24%; vật cảnh tăng 0,2%; dịch vụ liên quan đến vật nuôi tăng 0,3%; phí truyền hình và internet tăng 0,19%; thiết bị thể dục thể thao tăng 0,17% do chi phí đầu vào tăng và nhu cầu tăng.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,05% do giá gas tăng 0,89%; giá nhà ở thuê và giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở cùng tăng 0,08%; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,36%. Ở chiều ngược lại, giá điện sinh hoạt và giá nước sinh hoạt lần lượt giảm 1,45% và 0,13% do nhu cầu tiêu dùng giảm khi thời tiết mát; giá dầu hỏa giảm 5,53% chủ yếu do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá ngày 01/11/2023, 13/11/2023 và 23/11/2023.
Trong số 2 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, nhóm giao thông giảm 0,01% chủ yếu do: Giá xăng giảm 1,4%; giá dầu diezen giảm 7,14% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước vào ngày 01/11/2023, 13/11/2023 và 23/11/2023; giá xe ô tô mới, xe máy và xe ô tô đã qua sử dụng lần lượt giảm 0,17%; 0,05% và 0,24% do các hãng xe áp dụng chương trình khuyến mại để kích cầu tiêu dùng. Ở chiều ngược lại, giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 12,89%; giá phụ tùng ô tô tăng 0,11%; lốp, săm xe đạp tăng 0,62%; phụ tùng khác của xe đạp tăng 0,3%; giá dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,23%, dịch vụ rửa xe, bơm xe tăng 0,24%, dịch vụ trông giữ xe tăng 0,03%.
Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11% do giá điện thoại thế hệ cũ giảm.
Lạm phát cơ bản 11 tháng tăng 4,27% so cùng kỳ
Lạm phát cơ bản tháng 11/2023 tăng 0,16% so với tháng trước, tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,27% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng CPI bình quân chung (tăng 3,22%). Nguyên nhân chủ yếu do bình quân giá xăng dầu trong nước 11 tháng năm 2023 giảm 12,12% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 7,5% là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/11/2023, bình quân giá vàng thế giới ở mức 1.982,01 USD/ounce, tăng 3,8% so với tháng 10/2023 do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) duy trì lập trường giữ lãi suất điều hành ở mức 5,25-5,5% để kéo lạm phát về 2%. Sự sụt giảm lợi suất trái phiếu Mỹ và đồng USD đang làm tăng sức hấp dẫn đầu tư vào vàng. Bên cạnh đó, giá vàng tăng do nhu cầu dự trữ vàng của các ngân hàng Trung ương và ở khu vực châu Á trong dịp cuối năm. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 11/2023 tăng 2,77% so với tháng trước; tăng 8,8% so với tháng 12/2022; tăng 9,29% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 11 tháng năm 2023 tăng 3,38%.
Trên thế giới, giá đồng đô la Mỹ có xu hướng giảm khi chỉ số CPI tháng 10/2023 của Mỹ cũng như chỉ số giá sản xuất (PPI) ghi nhận mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 4/2020 do giá năng lượng suy yếu. Đồng bạc xanh đã ghi nhận mức giảm mạnh so với các loại tiền tệ chính khác khi lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu đang suy yếu. Đồng thời việc FED ngừng tăng lãi suất cũng khiến giá USD khó hồi phục. Tính đến ngày 25/11/2023, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 105,05 điểm, giảm 0,91% so với tháng trước.
Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 24.605 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2023 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 1,61% so với tháng 12/2022; giảm 1,03% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 11 tháng năm 2023 tăng 1,94%.