RCEP - Công cụ mới khai thác hiệu quả thị trường truyền thống Nhật Bản

Hội thảo "Giới thiệu cơ hội từ Hiệp định RCEP để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản" do Bộ Công Thương tổ chức chiều ngày 5/7/2022 đã thu hút đông đảo doanh nghiệp từ các địa phương Hà Nội, TP.HCM, Thái Nguyên, Kiên Giang... tham dự, trao đổi, cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp đối với việc khai thác Hiệp định này.

hoi thao rcep

Sự kiện do Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam và JETRO Hà Nội tổ chức nhằm thông tin tới cộng đồng doanh nghiệp những cách thức, giải pháp khai thác hiệu quả Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) để gia tăng hợp tác, giao thương với thị trường truyền thống này.

Thêm động lực phát triển, thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam

Ông Đỗ Quốc Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Á – Châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết, trong số các thị trường RCEP, Nhật Bản là thị trường trọng điểm có ý nghĩa quan trọng và gắn kết chặt chẽ với Việt Nam về thương mại.

Thứ nhất đây là thị trường gần gũi với Việt Nam về địa lý cũng như văn hóa; thứ hai đây là đối tác mà Việt Nam đã ký kết rất nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), qua đó xóa bỏ các rào cản về thương mại, thuế quan…. đối với hàng hóa xuất khẩu.
Thứ ba, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của hai nước mang tính chất bổ sung rõ nét, không có sự cạnh tranh trực tiếp. Bên cạnh quan hệ thương mại tích cực, Nhật Bản luôn là đối tác đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam…
Với những điều kiện như vậy, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhật Bản hiện đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, chiếm gần 10% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. Nhật Bản cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc, Hàn Quốc.
Có thể nói những kết quả ấn tượng trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Nhật Bản có sự đóng góp rất lớn từ những FTA song phương và đa phương mà hai nước tham gia. Đó là ưu đãi, lợi thế được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản khai thác gần 15 năm qua từ Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) và Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJEPA); đó là sự bổ sung quan trọng của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2018. Hiệp định CPTPP đã xóa bỏ hàng rào thuế quan hoặc có mức ưu đãi thuế quan cao hơn so với 2 FTA trước đó mà Nhật Bản và Việt Nam cùng tham gia, đặc biệt đối với các mặt hàng nông thủy sản chủ lực của Việt Nam.

Thông tin thêm về quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, ông Nguyễn Duy Kiên, chuyên viên Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi cho biết, trong những năm qua, Việt Nam đã đóng góp khoảng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản (năm 2021 đạt 772 tỷ USD, thị trường nhập khẩu lớn thứ 5 thế giới).

Với dung lượng thị trường có sức mua và nhu cầu tiêu dùng thuộc hàng lớn trên thế giới, hàng hóa Việt Nam có nhiều thuận lợi để tăng cường xuất khẩu sang Nhật Bản, đặc biệt là những sản phẩm có thế mạnh như: Thủy sản, nông sản, hàng dệt may và da giày, các sản phẩm từ gỗ. Đây cũng là những mặt hàng thị trường Nhật Bản có nhu cầu cao.

Hiện nay, các FTA mà Việt Nam và Nhật Bản cùng tham gia đang trở thành trợ lực quan trọng, là đòn bẩy thúc đẩy quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Bên cạnh đó, việc vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam sang Nhật Bản hay ngược lại cũng khá thuận lợi. 

"Chỉ trong vòng 10 năm (từ 2010 – 2019), quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam đã tăng trưởng khá ấn tượng gấp 2,4 lần, từ hơn 16 tỷ USD năm 2010 lên gần 40 tỷ USD vào năm 2019 và đạt 42,7 tỷ USD vào năm 2021; cán cân thương mại khá cân bằng", ông Kiên cho biết.

hung - a phi
Ông Đỗ Quốc Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Á – Châu Phi (Bộ Công Thương)

Với việc Hiệp định RCEP chính thức có hiệu lực vào đầu năm nay, mối quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Nhật Bản tiếp tục có thêm động lực phát triển, có thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nhiều hơn nữa vào thị trường Nhật Bản thông qua những ưu đãi, lợi thế có được từ Hiệp định này”, ông Đỗ Quốc Hưng nhấn mạnh.

Làm rõ hơn những lợi thế từ Hiệp định RCEP khi xuất khẩu vào Nhật Bản, ông Nguyễn Bình An, chuyên viên Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi cho biết, so với 3 hiệp định đã có giữa Việt Nam và Nhật Bản thì những cam kết về cắt giảm thuế quan của RCEP không cao hơn. Do đó mục tiêu chính của Hiệp định RCEP là tập trung tạo thuận lợi khai thác lợi thế quốc gia và kết nối với nhau tạo thành chuỗi cung ứng.

Ở góc độ này, Hiệp định RCEP mang lại một số cơ hội cho Việt Nam trong hợp tác với Nhật Bản. Thứ nhất, Việt Nam có thể đa dạng hóa nguồn nguyên liệu sản xuất đầu vào để thúc đẩy xuất khẩu vào Nhật Bản.

Ví dụ trước đây khi muốn xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản, chúng ta phải thực hiện quy tắc xuất xứ theo VJEPA, AJEPA hoặc CPTPP - những FTA không có sự tham gia của Trung Quốc, Hàn Quốc vốn là những nguồn cung nguyên phụ liệu dệt may lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Khi đó hàng dệt may Việt Nam sử dụng các nguồn nguyên liệu này xuất sang Nhật Bản không tận dụng được ưu đãi thuế quan.

Từ khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được nguồn nguyên liệu dệt may từ Trung Quốc, Hàn Quốc cũng là những thành viên Hiệp định để sản xuất và xuất khẩu sang Nhật Bản hưởng ưu đãi thuế quan nội khối theo RCEP.

"Cơ hội thứ hai là quy tắc xuất xứ của RCEP không có nhiều khác lạ, bởi doanh nghiệp Việt Nam đã rất quen thuộc với quy tắc này trong các FTA với các nước ASEAN và các nước đối tác như Trung Quốc, Hàn Quốc...; từ 5 quy tắc với 5 đối tác gộp thành 1 quy tắc; cộng với việc tích hợp quy tắc xuất xứ theo VJEPA nên hiện giờ doanh nghiệp Việt Nam rất dễ dàng thực hiện quy tắc xuất xứ để giành được ưu đãi thuế quan thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang Nhật Bản”, ông An nêu rõ.

Một cơ hội khác là RCEP giúp các doanh nghiệp Việt Nam cắt giảm chi phí khi xuất khẩu sang Nhật Bản. Bởi nguyên liệu đầu vào áp dụng quy tắc xuất xứ từ nội khối, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào khi sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường này.

Hiệp định RCEP còn hướng tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo cơ hội kết nối khu vực doanh nghiệp này của Việt Nam với những doanh nghiệp nhỏ và vừa các nước nội khối nói chung, Nhật Bản nói riêng, từ đó các doanh nghiệp có thể tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng của Nhật Bản.

Nhiều dư địa nhưng cần thích ứng với thách thức và cạnh tranh

Bên cạnh những cơ hội mà Hiệp định RCEP mang lại, ông An cũng chỉ ra một số thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp phải, đó chính là môi trường cạnh tranh xuất khẩu tại Nhật Bản gay gắt hơn rất nhiều bởi Nhật Bản sẽ dành các ưu đãi thuế quan cho các đối tác mới của họ trong Hiệp định như Trung Quốc, hàng hóa Trung Quốc hưởng lợi từ RCEP sẽ gia tăng vào thị trường Nhật Bản và sẽ cạnh tranh với những hàng hóa cùng loại của Việt Nam.

Thách thức nữa là khi thực hiện RCEP, Việt Nam sẽ phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh rất mạnh tại thị trường Nhật Bản, có sự tương đồng về cơ cấu xuất khẩu với chúng ta nhưng có năng lực và lợi thế cạnh tranh cao như Thái Lan, Malaysia, Indonesia….

Do đó, để khai thác thành công Hiệp định RCEP tại Nhật Bản, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu. Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực trách nhiệm xã hội với các tiêu chuẩn về lao động. Bên cạnh đó cần chủ động tìm hiểu, tiếp xúc và kết nối với các đối tác thị thị trường Nhật Bản.

Về phía cơ quan quản lý Nhà nước sẽ tăng cường kiểm soát các công nghệ nhập khẩu vào Việt Nam để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng những công nghệ sản xuất tiên tiến và phù hợp nhất. Đồng thời tiếp tục hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp để đủ sức cạnh tranh với các "đối thủ" cạnh tranh tại Nhật Bản, từ đó mở rộng thị phần tại thị trường này.

Chia sẻ cụ thể về nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng nông thủy sản của Nhật Bản, bà Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Bí thư thứ nhất, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản cho biết, thời gian gần đây, một số mặt hàng nông sản của Việt Nam tăng trưởng tốt tại thị trường Nhật Bản như: thủy sản, cà phê, hạt điều, hạt tiêu... Lũy kế 5 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 875 triệu USD, tăng 18% so cùng kỳ năm 2021. Một số mặt hàng nông sản Việt Nam chiếm thị phần lớn và ngày càng phổ biến tại Nhật Bản như: thanh long, xoài, dừa, vải...

Tuy nhiên, theo bà Huệ, nhìn chung các sản phẩm nông thủy sản, hoa quả của Việt Nam mới chỉ chiếm thị phần rất nhỏ hoặc chưa chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu nhập khẩu các mặt hàng này của Nhật Bản nên còn rất nhiều dư địa để các doanh nghiệp xuất khẩu có thể xâm nhập thị trường. 

nhat ban nk nong san
Nguồn: Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi (Bộ Công Thương)

Mặc dù còn nhiều dư địa thị trường và thực tế một số nông sản chế biến của Việt Nam đang được ưa chuộng tại Nhật Bản nhưng các sản phẩm xuất sang thị trường này cần đáp ứng đầy đủ các quy định, yêu cầu.

Sản phẩm nông sản tươi sống hoặc qua chế biến xuất khẩu cần phải phù hợp với các tiêu chuẩn, quy định trong Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản. Hải quan Nhật Bản quy định rất nghiêm ngặt, nếu 1 lô hàng bị phát hiện vi phạm vệ sinh, không những lô hàng đó bị yêu cầu phải tiêu hủy, tần suất kiểm tra sẽ được tăng lên không chỉ với 1 doanh nghiệp mà đối với cả các doanh nghiệp khác cùng nhập khẩu mặt hàng tương tự”, bà Huệ lưu ý.

Mặt khác, nhiều mặt hàng nông sản tươi sống xuất khẩu vào Nhật Bản vẫn còn gặp khó khăn như thời gian vận chuyển lâu nên khó đảm bảo độ tươi ngon và việc đáp ứng những yêu cầu khắt khe của vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó doanh nghiệp nên nghiên cứu, cân nhắc việc tăng cường sản xuất, chế biến sâu các mặt hàng rau quả, thực phẩm theo dạng đông lạnh để gia tăng giá trị sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh tại thị trường Nhật Bản.

Chia sẻ với các doanh nghiệp tham gia Hội thảo, bà Quyền Thị Thúy Hà, Trưởng chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại Osaka, Nhật Bản cho rằng, các doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản cần chuẩn bị kỹ về hồ sơ giới thiệu năng lực cũng như có website riêng và catalog giới thiệu sản phẩm, sau đó là thông qua các kênh xúc tiến thương mại và qua mạng lưới của thương vụ tại nước ngoài để tiếp cận đối tác.

Cơ quan thương vụ sẽ thông qua các chương trình xúc tiến thương mại để thay mặt doanh nghiệp giới thiệu tới các đối tác; hoặc trên cơ sở các thông tin về sản phẩm và các thế mạnh của doanh nghiệp, cơ quan thương vụ sẽ tìm kiếm các đơn vị nhập khẩu có nhu cầu tương ứng”, bà Hà cho biết.

Trong khuôn khổ Hội thảo, đại diện Lãnh đạo Tập đoàn AEON Topvalue Việt Nam và các doanh nghiệp từ Thái Nguyên, Kiên Giang... cũng đã trao đổi, tìm hiểu nhu cầu và năng lực cung ứng hàng hóa Việt Nam phù hợp để xuất khẩu và phân phối trong hệ thống của AEON.

Sau hơn 7 năm đàm phán, Hiệp định RCEP được ký ngày 15/11/2020 chính thức có hiệu lực từ 01/01/2022 mở ra khu vực thương mại tự do có quy mô lớn nhất thế giới, với tổng GDP khoảng 30% GDP toàn cầu và một thị trường với 1/3 dân số thế giới. Hiệp định RCEP có 15 thành viên, gồm 10 nước ASEAN và 5 nước đối tác của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand.
Với việc hài hòa các cam kết, quy định trong Hiệp định thương mại tự do ASEAN cộng với 5 nước đối tác, nhất là về quy tắc xuất xứ và tạo thuận lợi thương mại, Hiệp định RCEP kết nối các hiệp định này với nhau, từ đó, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp ASEAN nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, đặc biệt là các DNNVV cùng hợp tác trong các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng khu vực, thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài.

Việt Hằng