Bộ Công Thương đề xuất 5 giải pháp để khai thác hiệu quả Vùng đồng bằng sông Hồng

Sáng nay 12/2/2023, tại TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng với chủ đề "Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và Bền vững".

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký đồng chủ trì Hội nghị.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đồng chí chủ trì Hội nghị

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự Hội nghị và phát biểu đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu tại Vùng đồng bằng Sông Hồng. Cùng dự các lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 11 tỉnh, thành phố Vùng Đồng bằng sông Hồng, đại diện các đại sứ quán, tổ chức quốc tế tại Việt Nam cùng các đối tác phát triển, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hội nghị là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của Vùng Đồng bằng sông Hồng, mở ra "cơ hội mới đột phá" cho vùng đất là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng và là trung tâm chính trị, kinh tế, đi đầu cả nước về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,… dẫn dắt nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.

Hội nghị được tổ chức với mục đích công bố Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bên cạnh đó còn có các hoạt động xúc tiến đầu tư, kêu gọi sự quan tâm của các nhà đầu tư, hiệp hội doanh nghiệp trong nước, quốc tế, các đối tác phát triển trong việc đồng hành với Chính phủ để triển khai các chương trình, dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng.

Chương trình hành động của Chính phủ thể hiện định hướng chỉ đạo của Chính phủ theo tinh thần đồng hành cùng các tỉnh, thành phố trong vùng Đồng bằng sông Hồng; đồng thời xác định rõ vai trò, nhiệm vụ chủ yếu để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trong vùng đảm bảo xây dựng và phát triển hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường gắn chặt với quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Để thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, Chính phủ đề ra 21 mục tiêu cụ thể và 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Ngoài ra, Chương trình hành động của Chính phủ cũng đã đề ra 36 nhiệm vụ cụ thể và 20 dự án kết cấu hạ tầng và phân công cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện, có lộ trình thời gian thực hiện cụ thể.

Chương trình hành động của Chính phủ dự kiến đưa ra nhiều điểm mới, có tính đột phá trong phát triển của vùng nhất là về định hướng phát triển, mục tiêu cụ thể, giải pháp rõ ràng, nhiệm vụ cụ thể; gắn với một số chủ trương lớn về phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ, chuyển đổi số gắn với đổi mới sáng tạo và xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phát triển vùng sẽ là cơ hội cho vùng đồng bằng sông Hồng phát triển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Quang cảnh Hội nghị

Trong khuôn khổ hội nghị, có 20 dự án ODA, quy mô vốn lên tới hơn 2 tỷ USD được ký kết với các nhà tài trợ là các tổ chức quốc tế. Về vốn đầu tư ngoài ngân sách có 18 giấy chứng nhận đầu tư, 4 quyết định chủ trương đầu tư và 2 biên bản ghi nhớ được ký kết.

Ngoài ra, tại hội nghị cũng công bố quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và quy hoạch chung thành phố Hạ Long đến năm 2040. Bên lề hội nghị còn có triển lãm ảnh nghệ thuật với chủ đề “Vùng đồng bằng sông Hồng: Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và Bền vững” và Hội chợ trưng bày sản vật đặc trưng, sản phẩm công nghiệp và tư liệu xúc tiến đầu tư của các địa phương trong vùng diễn ra từ ngày 12-14/2/2023 tại Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh Quảng Ninh.

Khác với các hội nghị vùng trước đây chỉ giới thiệu các sản phẩm nông sản của các địa phương trong vùng, thì ở hội nghị này các địa phương sẽ có thêm các sản phẩm công nghiệp nổi bật, thể hiện rõ tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng.

Tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu tại Vùng đồng bằng Sông Hồng.

Cụ thể, theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của quốc gia với hạt nhân là Thủ đô Hà Nội; có vai trò là 1 trong 2 “đầu tàu” kinh tế, động lực phát triển hàng đầu của cả nước với 3 cực tăng trưởng là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại Hội nghị

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các địa phương trong Vùng đã khai thác khá hiệu quả các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của cả nước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, cơ cấu kinh tế Vùng có sự chuyển dịch tích cực với vai trò trụ cột là khu vực công nghiệp và thương mại, dịch vụ.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Vùng và chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động và đất đai; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong công nghiệp chế biến còn ở mức thấp và phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp FDI; phân bố không gian phát triển công nghiệp chưa phù hợp và thiếu tính kết nối, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành.

Để khắc phục các tồn tại, hạn chế; tiếp tục khai thác, phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Vùng, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp cao theo hướng hiện đại, công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, dưới góc độ ngành Công Thương, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã đề xuất 4 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:

Thứ nhất, đẩy nhanh việc hoàn thiện, trình phê duyệt quy hoạch Vùng và quy hoạch các địa phương thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, phù hợp với định hướng Quy hoạch tổng thể và các quy hoạch ngành quốc gia, làm cơ sở xây dựng, triển khai có hiệu quả các chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực tại địa phương; đồng thời, tổ chức không gian phát triển hợp lý, bảo đảm cân bằng, bền vững, kết nối hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, các cực tăng trưởng và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông để khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, thúc đẩy liên kết Vùng và khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội về vị trí địa kinh tế, chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của Vùng và của mỗi địa phương.

Thứ hai, tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách của địa phương, bảo đảm đồng bộ, đủ mạnh, khả thi, phù hợp với các quy định của Nhà nước để đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn; đồng thời, chú trọng nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho thực hiện thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới, có tính đột phá, phù hợp với các cam kết quốc tế để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thể vượt trội của Vùng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các ngành công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh, từng bước tham gia sâu, toàn diện vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư vào hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, khu kinh tế theo hướng hiện đại, hệ thống logistics đồng bộ nhằm tăng cường liên kết vùng, thúc đẩy hình thành, phát triển các vành đai công nghiệp, các cụm liên kết ngành và hệ sinh thái công nghiệp, dịch vụ, đô thị ở các địa phương có lợi thế để tập trung thu hút các dự án sản xuất công nghiệp quy mô lớn, có công nghệ và giá trị gia tăng cao, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Vùng và cả nước.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, gắn với tổ chức phân bố không gian phát triển công nghiệp phù hợp với tiềm năng, lợi thế phát triển của từng tiểu vùng và từng địa phương; theo đó, các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên) tập trung phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, có lợi thế cạnh tranh (như: Công nghiệp điện tử, công nghệ số, công nghiệp phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ôtô, công nghiệp hỗ trợ); đồng thời, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, có tính chất “dẫn đường” (như: Sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp năng lượng tái tạo, vật liệu mới).

Đối với các địa phương thuộc tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng (như các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) tập trung phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản (nhất là chế biến nông, lâm, thuỷ sản công nghệ cao); cơ khí, chế tạo, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch gắn với phát triển các khu kinh tế, khu du lịch ven biển; đồng thời, chú trọng quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi, tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn, tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc để tạo nguồn hàng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch.

Thứ năm, tập trung thúc đẩy ở mức cao nhất chương trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, doanh nghiệp số để Vùng thực sự đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng công nghệ cao, công nghệ số. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có tay nghề và trình độ quản lý đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Vùng; đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh, đi đầu trong cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương trong Vùng.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng khẳng định với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại, thời gian tới Bộ Công Thương sẽ: Tập trung rà soát, tham mưu hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp theo định hướng tại Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật Phát triển công nghiệp với nội dung cốt lõi là các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất để các địa phương, các Vùng kinh tế tổ chức thực hiện; đồng thời, tiếp tục rà soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những cơ chế, chính sách còn bất cập, chồng chéo, cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông và giải phóng các nguồn lực, nhất là nguồn xã hội hóa trong đầu tư phát triển công nghiệp và thương mại.

Để thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ, Bộ Công Thương cũng đề nghị cần sớm có cơ chế điều phối vùng và cơ chế đối thoại thường xuyên, đột xuất giữa các Bộ, ngành với các địa phương nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Vùng cho phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi, toàn diện các mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra.

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng công bố Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 8/2/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Cụ thể, tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GRDP Vùng tăng khoảng 3 lần so với năm 2020 (giá hiện hành), trong đó nông, lâm và thủy sản chiếm khoảng 3,5%, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 47%, dịch vụ chiếm khoảng 41%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm khoảng 8,5%. GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 274 triệu đồng/người/năm.

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt hơn 7%. Đóng góp bình quân của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2021-2030 đạt 55%. Kinh tế số đạt khoảng 35% GRDP. Tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 55%. 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có ít nhất 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu…

Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu cụ thể nêu trên, Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trong Vùng Đồng bằng Sông Hồng tập trung chỉ đạo thực hiện 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, gồm: Công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến thông tin, tạo sự thống nhất, đồng thuận của xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện và triển khai các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và liên kết vùng; phát triển kinh tế vùng; phát triển bền vững hệ thống đô thị bền vững và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Hội nghị sẽ nghe các đại biểu tham luận, tập trung vào các chủ đề: Phát triển đồng bộ mạng lưới giao thông vận tải Vùng Đồng bằng sông Hồng hiện đại, liên kết vùng và quốc tế; giải pháp phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng trở thành trung tâm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo hàng đầu cả nước; giải pháp đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, từng bước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu tại Vùng Đồng bằng sông Hồng; giải pháp phát triển thị trường lao động gắn kết cung cầu lao động Vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước; phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố thông minh, hiện đại, có bản sắc; động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước…

Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu gian hàng trưng bày sản vật đặc trưng, sản phẩm công nghiệp và tư liệu xúc tiến đầu tư của các địa phương trong Vùng.

 

Đông Sơn