Khó khăn chung của nền kinh tế
Sáu tháng đầu năm 2012, Vinacomin đã phải đối diện với khá nhiều khó khăn, do tác động của khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới và khu vực, giá cả các mặt hàng đầu vào phục vụ sản xuất tăng cao. Trong nước, lạm phát, lãi suất tín dụng tuy có giảm nhưng vẫn còn cao, khó tiếp cận nguồn vốn, do vậy, việc tiêu thụ than đã gặp phải những khó khăn như, các hộ tiêu thụ than trong nước giảm sản lượng, trả tiền chậm, giá bán than cho hộ điện vẫn còn thấp. Than tồn kho cao lên đến gần 10 triệu tấn, gây mất cân đối dòng tiền trong doanh thu và chi phí, tác động mạnh đến công tác quản trị tài chính. Thêm vào đó, tình hình thời tiết diễn biến bất thường, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp...
Những nguyên nhân trên đã dẫn tới kết quả thực hiện các chỉ tiêu trong 6 tháng đầu năm của ngành Than đều đạt thấp hơn so với cùng kỳ (SVCK) năm 2011. Than nguyên khai sản xuất 25,43 triệu tấn, đạt 52% kế hoạch năm, bằng 99% SVCK. Tiêu thụ than đạt 19,8 triệu tấn, bằng 43,6% kế hoạch năm và bằng 87% SVCK năm 2011. Trong đó, xuất khẩu 6,9 triệu tấn, đạt 51% kế hoạch năm và bằng 85% SVCK năm 2011; tiêu thụ than trong nước 12,9 triệu tấn, đạt 40% kế hoạch năm và bằng 88% SVCK. 6 tháng, toàn Ngành đã thực hiện bóc đất đá 150 triệu m3, đạt 52% kế hoạch năm, bằng 117% SVCK; thực hiện được 187 ngàn mét đào lò, đạt 47% kế hoạch năm, bằng 102% SVCK. Doanh thu 6 tháng đầu năm toàn Tập đoàn ước đạt 43,2 ngàn tỷ đồng, bằng 44,8% kế hoạch năm và bằng 96% SVCK 2011.
Theo dự báo, 6 tháng cuối năm 2012, tình hình suy thoái kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng tích cực; Kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, giá cả đầu vào của sản xuất diễn biến khó lường; Mặt khác, trong quý 3 và đầu quý 4 lại vào mùa mưa bão; Công tác quản lý, khai thác mỏ theo luật khoáng sản còn nhiều bất cập... Đặc biệt, giá bán than trong nước vẫn chưa được thực hiện theo giá thị trường… Đó là những khó khăn lớn mà các doanh nghiệp ngành Than – Khoáng sản cần vượt qua.
Khó do cơ chế, chính sách
Ngoài những khó khăn trên, Vinacomin còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế quản lý còn nhiều bất cập. Một là, hiện nay, Chính phủ chỉ đạo giao sản lượng cho Vinacomin thực hiện với mức ngày càng tăng. Dự kiến đến năm 2015, sản lượng khai thác lên đến 60 triệu tấn, và tăng tiếp vào những năm sau đó, lên tới 80 rồi 100 triệu tấn mỗi năm. Tuy nhiên, việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác cho các đơn vị trực thuộc Vinacomin của địa phương, các bộ, ban ngành còn quá chậm, dẫn tới nhiều dự án bị đình trệ. Trong khi đó, từ khi bắt tay vào xây dựng một mỏ hầm lò mới đến lúc ra được than, thời gian xây dựng cơ bản có thể lên đến sáu hoặc bảy năm, thậm chí lâu hơn. Đây là một khó khăn cơ bản, cần được sự quan tâm cải tiến thủ tục của các cấp, các ngành và các địa phương.
Hai là, hiện nay, giá than xuất khẩu đang giảm, đồng thời sản lượng xuất khẩu cũng giảm dần vào những năm tới, tiến tới kết thúc xuất khẩu và tiến hành nhập khẩu than. Mặt khác, giá than trong nước bán cho các nhà máy điện do Nhà nước ấn định chỉ bằng nửa giá thành sản xuất (trung bình giá thành sản xuất khoảng 1.200.000 đồng/tấn thì giá bán cho các hộ điện chỉ khoảng 600.000 đồng/tấn). Như vậy, ngành Than không cân đối được tài chính, dẫn tới thiếu vốn cho đầu tư xây dựng các mỏ mới…
Nếu tính toán tổng thể, thì hiện tại, ngành Than mà cụ thể là những người thợ mỏ đang phải gánh trên vai nhiệm vụ bao cấp cho nhiều doanh nghiệp khác, trong đó có cả những doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc bán than, với giá quá thấp cho các nhà máy nhiệt điện đốt than. Vì vậy, với 13,5 triệu tấn than cung cấp cho các nhà máy điện trong năm 2012 này, theo giá thành, Vinacomin phải bù lỗ khoảng 8.500 tỷ đồng. Nếu tính theo giá xuất khẩu thì Vinacomin cũng phải bù lỗ cho điện là 900 triệu USD. Năm 2013, thêm một số nhà máy nhiệt điện đưa vào vận hành, than cho điện tăng lên 18 triệu tấn, số tiền phải bù còn lớn hơn. Khi còn xuất khẩu than, Chính phủ cho phép Vinacomin lấy xuất khẩu bù giá trong nước và tích lũy để tái đầu tư. Nhưng tới đây xuất khẩu than giảm, toàn bộ than sẽ chỉ phục vụ nội địa, nếu không điều chỉnh giá bán than, thì Vinacomin không có tiền để đầu tư 28 dự án xây dựng mới và cải tạo mỏ theo quy hoạch của Thủ tướng đã phê duyệt nhằm đảm bảo an ninh năng lượng.
Để có 55 - 60 triệu tấn than, giai đoạn 2015 - 2020, Vinacomin phải đầu tư lượng vốn khoảng 40.000 tỷ đồng/năm. Muốn vay được lượng vốn trên, Vinacomin phải có ít nhất 20% vốn chủ sở hữu (8.000 tỷ đồng). Và để có 8.000 tỷ đồng vốn đối ứng, ít nhất mỗi năm Vinacomin phải có lợi nhuận 15.000 tỷ đồng. Do vậy, với cơ chế hiện nay, Vinacomin hoàn toàn không có tiền để đầu tư. Thực tế, việc khai thác than hầm lò của Vinacomin hiện nay đã xuống âm 300m so mặt nước biển. Các giếng hầm lò Núi Béo, Hà Lầm đang đào dưới âm 300m và chiều cao của giếng khoảng 400m, nhưng ở Khe Chàm II-IV tới đây, giếng sẽ có chiều sâu trên 580m. Mỏ hầm lò càng xuống sâu, đầu tư càng lớn, giá thành than ngày càng cao.
Giải pháp nào?
Để khắc phục tình hình, trước mắt, Vinacomin chỉ đạo các đơn vị phát huy tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm” cùng với những giải pháp chỉ đạo quyết liệt, sự phối hợp của cả hệ thống chính trị, phấn đấu thực hiện mục tiêu ổn định việc làm và đời sống cho người lao động, chờ cơ hội để phát triển. Các đơn vị tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi phí tối đa, tăng cường sử dụng nội lực trong Ngành, chủ động hoàn thiện trên cơ sở rà soát các cơ chế, qui chế, quy định, định mức kinh tế kỹ thuật, vật tư, lao động, quy mô và cơ cấu tổ chức, quản lý, quản trị chi phí phù hợp để phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh, ổn định thu nhập cho người lao động.
Mặt khác, Vinacomin tích cực làm rõ và đề nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan tâm xem xét, giải quyết tình thế, cho phép xuất khẩu than đạt 17 triệu tấn, tăng thêm 3,5 triệu tấn so với kế hoạch do nhu cầu trong nước giảm. Theo kế hoạch, dự kiến tiêu thụ trong nước năm 2012 là 28,5 triệu, giảm 3,5 triệu tấn so với kế hoạch năm. Tình huống này nhằm cân đối tài chính cho Tập đoàn, ổn định việc làm và thu nhập cho 138 ngàn người lao động. Vinacomin bám sát diễn biến thị trường để chủ động trong công tác sản xuất và tiêu thụ than, tích cực quan hệ với khách hàng để đẩy mạnh tiêu thụ, giảm tồn kho, bám sát và đôn đốc khách hàng lấy than đúng tiến độ kế hoạch và tăng cường thu hồi công nợ. Trong điều kiện than tồn kho còn cao, các đơn vị kho vận cần quan tâm đến các biện pháp che chắn bảo vệ than khi trời mưa, chủ động khai thông các hệ thống thoát nước, hố ga, bể lắng, có phương án giảm thiểu tối đa thất thoát do mưa bão gây ra. Đồng thời, các đơn vị kho vận cần chủ động chân hàng khi có điều kiện tiêu thụ tăng lên... Vinacomin cũng sẽ tập trung huy động vốn xã hội hóa cho các dự án phát triển. Tập đoàn đề nghị Chính phủ xem xét, rà soát lại chủ trương, chính sách, vấn đề tái cơ cấu, cũng như đề nghị với các cơ quan có thẩm quyền khác để cùng đồng hành tháo gỡ những khó khăn cho ngành Than - Khoáng sản.
Cái “khó” của ngành Than
TCCT
Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đang đứng trước nhiều khó khăn, bởi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và do một số cơ chế chính sách đối với ngành Than dường như không còn ph