TÓM TẮT:
Ngày nay, chuyển đổi số đã trở thành xu hướng tất yếu ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Công cuộc chuyển đổi số ngành Ngân hàng thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Thực tế triển khai đến nay, có hơn 87% người trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Tăng trưởng về số lượng giao dịch thanh toán qua di động (Mobile) và QR code bình quân qua các năm từ 2017 - 2023 đạt trên 100%/năm1. Tuy đã đạt được thành tựu bước đầu, ngành Ngân hàng vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trên con đường chuyển đổi số. Bài viết phân tích về thực trạng chuyển đổi số ngành Ngân hàng, những thách thức đặt ra và đưa ra một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: chuyển đổi số, ngành ngân hàng, thực trạng, giải pháp.
1. Đặt vấn đề
Xu hướng chuyển đổi số trên thế giới ngày càng rõ nét, đặc biệt trong giai đoạn xảy ra và sau khi kết thúc đại dịch Covid-19. Chuyển đổi số đang dần trở thành khái niệm quen thuộc và là xu hướng tất yếu để tồn tại và phát triển. Theo định nghĩa của Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT Research & Application Center), chuyển đổi số (Digital transformation) là quá trình sử dụng công nghệ số để thay đổi hoặc cải tiến các hoạt động kinh doanh, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh2.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số. Quá trình này hướng đến mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội3.
Chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở việc tích hợp các công cụ số mà còn yêu cầu doanh nghiệp tái cấu trúc toàn diện từ chiến lược, quy trình vận hành đến văn hóa tổ chức. Các yếu tố cơ bản của chuyển đổi số bao gồm đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật số, phát triển năng lực số hóa và khai thác dữ liệu như một yếu tố sản xuất quan trọng.
Đối với ngành Ngân hàng, chuyển đổi số trong ngân hàng không chỉ đơn giản là việc ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain... mà thay vào đó là quá trình chuyển đổi toàn bộ từ mô hình, chiến lược, văn hóa kinh doanh của ngân hàng trên nền tảng công nghệ số4. Chuyển đổi số ngành Ngân hàng được xem là sự thay đổi về công nghệ số, thực hiện số hóa tất cả các khía cạnh và hoạt động của ngân hàng. Việc chuyển đổi này cho phép tạo mới hoặc sửa đổi quy trình hoạt động, mô hình kinh doanh, văn hóa và gia tăng trải nghiệm khách hàng, bắt kịp các yêu cầu thay đổi của thị trường và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Chính vì vậy, việc phân tích thực trạng và những thách thức đặt ra trên con đường chuyển đổi số của ngành Ngân hàng nước ta hiện nay là vô cùng cần thiết, để qua đó có thể đưa ra những giải pháp hợp lý giúp thúc đẩy công cuộc chuyển đổi số của lĩnh vực này đạt hiệu quả tốt hơn.
2. Thực trạng chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Tại Việt Nam, chuyển đổi số ngành Ngân hàng được xác định là một trong 8 lĩnh vực cần ưu tiên theo Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Thời gian vừa qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng trong công cuộc chuyển đổi số và đạt được nhiều thành quả trên các trụ cột quan trọng, như: chuyển đổi nhận thức, hoàn thiện thể chế, nâng cấp hạ tầng, ứng dụng khai thác dữ liệu và phát triển các mô hình ngân hàng số, cùng với công tác đảm bảo an ninh, an toàn… Cụ thể như sau:
Thứ nhất, xác định vai trò của chuyển đổi nhận thức. Ngân hàng Nhà nước là một trong các bộ, ngành đầu tiên thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số (năm 2021) và chọn ngày 11/5 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số ngành Ngân hàng nhằm lan tỏa tinh thần, nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân về vai trò, lợi ích của chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước tổ chức nhiều tọa đàm, hội thảo, khóa đào tạo cho các cấp lãnh đạo, nhân viên về công tác chuyển đổi số; đồng thời, chú trọng triển khai chương trình phổ biến kiến thức ngân hàng - tài chính cho người dân.
Thứ hai, về mặt thể chế. Ngân hàng Nhà nước đã tập trung nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần được luật hóa để phù hợp với thực tiễn hoạt động; ban hành và tổ chức triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng; xây dựng, ban hành các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chuyển đổi số của ngành. Một số văn bản tiêu biểu có thể kể đến như: Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Ngân hàng Nhà nước phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Chỉ thị số 02/CT-NHNN, ngày 13/01/2022 về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; Văn bản số 996/NHNN-CNTT, ngày 23/02/2023 báo cáo tình hình triển khai Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử (Đề án 06),…
Thứ ba, hạ tầng chuyển đổi số luôn được quan tâm đầu tư, tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử… thường xuyên được nâng cấp về năng lực xử lý bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn, đáp ứng nhu cầu thanh toán điện tử toàn quốc. Hạ tầng thông tin tín dụng cũng được đầu tư, nâng cấp để tăng mức độ xử lý, khả năng tự động cập nhật, đồng thời tăng khả năng thu thập và xử lý dữ liệu trong và ngoài ngành.
Tính đến cuối năm 2023, tại Việt Nam có hơn 21.000 ATM và 513.000 POS; 77,41% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác. Mạng lưới chấp nhận thanh toán (POS/QR Code) bao phủ đến hầu hết các điểm kinh doanh, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tiện ích và đang mở rộng ra các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học. Đặc biệt, cuối năm 2023, Việt Nam đã hoàn tất kết nối hệ thống thanh toán xuyên biên giới qua QR Code với Thái Lan, Campuchia (đang triển khai với Lào), cho phép người dân mỗi nước quét QR Code để trả tiền hàng hóa, dịch vụ an toàn, tiện lợi tại các nước này trên ứng dụng di động ngân hàng Việt Nam và ngược lại5.
Triển khai thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (gọi tắt là Đề án 06), Ngân hàng Nhà nước đã thành lập tổ công tác triển khai Đề án 06 và ban hành Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06 giai đoạn 2022-2025 và Kế hoạch nhiệm vụ chi tiết từng năm. Do đó, dịch vụ công của Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính thức từ tháng 12/2022 và bước đầu phối hợp triển khai kết nối phục vụ công tác phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Nhiều ngân hàng đã phối hợp với Bộ Công an thử nghiệm thành công một số giải pháp ứng dụng xác thực người dân qua thẻ căn cước công dân gắn chíp trong một số nghiệp vụ ngân hàng.
Thứ tư, đối với việc phát triển các mô hình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng đã chủ động ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số tiên tiến, như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, tự động hóa quy trình bằng rô-bốt, trí tuệ nhân tạo, máy học,… vào các hoạt động ngân hàng, cung ứng các sản phẩm dịch vụ an toàn, tiện ích nhằm gia tăng trải nghiệm cho khách hàng. Các ngân hàng cũng xây dựng thiết lập các trung tâm, đơn vị riêng trong nội bộ nhằm nghiên cứu, đẩy mạnh chuyển đổi số ngân hàng. Nhiều ngân hàng chủ động hợp tác với hãng công nghệ lớn, công ty công nghệ tài chính (Fintech) để nâng cao hiệu quả vận hành qua ứng dụng các công nghệ, giải pháp số tiên tiến, cho ra đời các dịch vụ ngân hàng số thế hệ mới (Neobanking), hướng tới đối tượng khách hàng trẻ, năng động, am hiểu công nghệ và chú trọng trải nghiệm khách hàng vượt trội chỉ trên kênh số. Các ngân hàng cũng hợp tác với đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ để cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và ngoài ngân hàng một cách an toàn, thuận tiện, tích hợp sâu vào hành trình số của khách hàng.
Năm 2021, tại Việt Nam, tỷ lệ người tiêu dùng thường xuyên sử dụng dịch vụ ngân hàng số đã tăng đến 41% so với năm 2017, vượt qua mức tăng 33% của toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam được xem là quốc gia có tốc độ phát triển dịch vụ ngân hàng số nhanh nhất khu vực này. Các ngân hàng đã hợp tác với các công ty Fintech nhằm số hóa các quy trình và dịch vụ sẵn có, từ đó cung cấp các dịch vụ trên nền tảng số cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Một số nghiệp vụ cơ bản của ngành Ngân hàng đã được số hóa 100%, nhiều thành tựu công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được ứng dụng rộng rãi vào các dịch vụ ngân hàng cốt lõi như nhận tiền gửi, tín dụng, thanh toán, đặc biệt là thanh toán trên thiết bị di động và đã tăng trưởng nhanh hàng năm (tăng 107% về số lượng và 92% về giá trị), đóng góp hiệu quả đáng kể cho hoạt động chuyển số trong ngành Ngân hàng. Các ngân hàng đang cung cấp dịch vụ ngân hàng số trên nền tảng đa kênh, đảm bảo trải nghiệm khách hàng nhất quán, như: iFast của Techcombank, E-mobile banking của Agribank, VCB Digibank của Vietcombank, Live Bank của TPBank6…
Một thành công quan trọng trong chuyển đổi số của ngành Ngân hàng cũng cần được đề cập đến, đó là phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Trong năm 2023, thanh toán qua kênh internet đạt gần 2 tỷ giao dịch, với giá trị đạt trên 52 triệu tỷ đồng (tăng hơn 56% về số lượng và 5,8% về giá trị so với năm 2022); qua kênh điện thoại di động đạt hơn 7 tỷ giao dịch với giá trị đạt hơn 49 triệu tỷ đồng (tăng hơn 61% về số lượng và gần 12% về giá trị); qua phương thức QR code đạt gần 183 triệu giao dịch, với giá trị đạt hơn 116 nghìn tỷ đồng (tăng gần 172% về số lượng và hơn 74% về giá trị so với năm trước)7…
Thứ năm, về đảm bảo an toàn, an ninh mạng, bảo mật thông tin khách hàng. Ngân hàng Nhà nước đã và đang tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành triển khai đồng bộ giải pháp nhằm đảm bảo an toàn, an ninh mạng hệ thống thông tin và bảo mật dữ liệu khách hàng. Về phía tổ chức tín dụng, các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ được bảo đảm an toàn, hoạt động thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.
Như vậy, với thực tế và kết quả đạt được, chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng vẫn đang và tiếp tục được triển khai mạnh mẽ trên toàn bộ hệ thống ngân hàng khắp cả nước. Xu hướng số hóa hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam cũng khá tương đồng với xu hướng trên thế giới. Các ngân hàng đang đi theo xu hướng số hóa áp dụng công nghệ mới để thay đổi các hoạt động của mình theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm, để cung cấp các dịch vụ nhanh chóng và chất lượng, mang lại hiệu quả kinh doanh tối ưu nhất.
3. Một số khó khăn, thách thức trong quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công cuộc chuyển đổi số, ngành Ngân hàng cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, chưa có khung pháp lý với các ý tưởng về các sản phẩm số hóa hoàn toàn mới, dẫn đến các ngân hàng dè dặt trong việc ra mắt sản phẩm mới. Bên cạnh đó, một số quy định về thủ tục giao dịch vẫn tiến hành trực tiếp (bằng văn bản giấy, gây ra sự gián đoạn và rắc rối trong thực hiện). Ngoài ra, các quy định về hợp đồng điện tử, chữ ký số, tài sản số... trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 còn chưa bắt kịp được với quá trình chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng hiện tại. Các quy định pháp luật về tố tụng, sở hữu trí tuệ, hình sự... chưa rõ ràng, chưa bao trùm được phạm vi hoạt động giao dịch qua nền tảng số gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngân hàng, quyền lợi của các bên khi tiến hành giao dịch, là cơ hội cho tình trạng tội phạm kỹ thuật số ngày càng gia tăng.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển ngân hàng số còn nhiều bất cập. Công nghệ ứng dụng trong ngân hàng số thường có tốc độ phát triển nhanh và dễ dàng thay thế bằng các công nghệ mới. Do đó, hạ tầng số, nền tảng số của ngành Ngân hàng còn chưa theo kịp nhu cầu thực tế.
Thứ ba, rủi ro công nghệ thông tin và chuyển đổi số tăng, đặc biệt là an ninh mạng, pháp lý, dữ liệu, vấn đề bảo mật. Trong quá trình tiến hành các thủ tục, giao dịch thông qua nền tảng số giữa ngân hàng và khách hàng, toàn bộ hoặc phần lớn các thông tin khách hàng đều nằm trên nền tảng số. Đây là thách thức lớn cho các bên trong vấn đề bảo mật thông tin và kiểm soát được nguy cơ bị tấn công bởi các tội phạm kỹ thuật số.
Thứ tư, hạn chế về cơ sở dữ liệu, chia sẻ thông tin, dữ liệu. Để tạo ra một hệ sinh thái thì việc chia sẻ dữ liệu sẽ cần ở mức sâu, rộng hơn và số hóa. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện chưa có quy định pháp luật về open banking như: tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo mật, các loại dữ liệu được chia sẻ, các bên được quyền tiếp cận, quyền lợi và nghĩa vụ liên quan… Điều này là một hạn chế lớn đối với các ngân hàng tại Việt Nam, kể cả các ngân hàng lớn, khi mà dữ liệu còn rời rạc, chưa được cập nhật, chuẩn hóa và số hóa.
Thứ năm, nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng còn hạn chế về sự hiểu biết đối với công nghệ cao, chưa đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình chuyển đổi số. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ sẽ giúp cho các ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục, quy trình giấy tờ phức tạp truyền thống trước đây, đẩy nhanh quá trình giao dịch, giúp tiết kiệm thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên, việc này sẽ dẫn đến tình trạng phải cắt giảm số lượng nhân lực trong một số vị trí làm việc như: giao dịch viên, bán lẻ, tiếp tân,…
Nhìn chung, ngành Ngân hàng vẫn đang đứng trước những thách thức trong công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Vì vậy, rất cần có những giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, từ ngành Ngân hàng, qua đó nhằm hóa giải những thách thức để công cuộc chuyển đổi số đạt được hiệu quả cao hơn nữa.
4. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Để giải quyết những khó khăn, thách thức ngành Ngân hàng phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi số, cần có những giải pháp kịp thời, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành đạt hiệu quả tốt hơn.
Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số ngành Ngân hàng. Theo đó, cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường công tác truyền thông, giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về ứng dụng kỹ thuật số và những lưu ý để phòng, tránh rủi ro khi thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử…
Thứ ba, tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc cung ứng sản phẩm số; tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn và hoạt động liên tục hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hệ thống thông tin quan trọng của ngân hàng nhà nước; tăng cường tích hợp, kết nối với các bộ, ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số; nâng cao chất lượng phục vụ và tăng tính tiện ích, trải nghiệm cho khách hàng.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành Ngân hàng. Đối với việc tuyển dụng nhân sự, cần khắt khe, công bằng, minh bạch hơn. Đối với đội ngũ nhân viên hiện có, cần tổ chức những khóa đào tạo, tập huấn chuyên sâu về công nghệ thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức về các kỹ năng vận hành công nghệ số vào hoạt động, giao dịch trong ngân hàng.
Thứ năm, phát triển, nâng cấp và áp dụng các công nghệ bảo mật tiên tiến là một ưu tiên hàng đầu, phòng ngừa trường hợp khi hệ thống máy chủ của ngân hàng bị tấn công sẽ hạn chế tối đa sự ảnh hưởng đến người dùng.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng là một xu thế tất yếu diễn ra trong thời đại phát triển công nghệ hiện nay. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song không thể phủ nhận lợi ích mà nó mang lại cho ngành Ngân hàng, như giảm chi phí, cải thiện trải nghiệm khách hàng và tăng cường hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy đã đạt được thành tựu bước đầu, ngành Ngân hàng vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trên con đường chuyển đổi số. Việc phân tích về thực trạng chuyển đổi số ngành Ngân hàng, những thách thức đặt ra và đưa ra một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, giúp công cuộc chuyển đổi số của lĩnh vực này đạt hiệu quả tốt hơn.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
1Huy Thắng (2025), “Ngân hàng và bài toán chuyển đổi số”, Báo điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn/ngan-hang-va-bai-toan-chuyen-doi-so-102250131111732798.htm
2Phan Thị Lệ Thúy (2024), “Chuyển đổi số ngành ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công Thương, số 10, tháng 5, tr. 354-359.
3Nguyễn Tuấn Anh (2023), “Đẩy mạnh chuyển đổi số theo tinh thần đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí điện tử Lý luận Chính trị và Truyền thông, truy cập tại https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/day-manh-chuyen-doi-so-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang-p26227.html
4Lê Cẩm Tú (2021), “Chuyển đổi số trong ngân hàng: Cơ hội và thách thức”, Tạp chí điện tử Ngân hàng, truy cập tại https://tapchinganhang.gov.vn/chuyen-doi-so-trong-ngan-hang-co-hoi-va-thach-thuc-9607.html
5Phạm Thị Phương Uyên (2024), “Chuyển đổi số của ngân hàng thương mại tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công thương, số 8, tháng 4, tr. 327-331.
6Đào Lê Kiều Oanh (2024), “Xu hướng chuyển đổi số trong ngành ngân hàng tại các nước trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí điện tử Thị trường tài chính tiền tệ, truy cập tại https://thitruongtaichinhtiente.vn/xu-huong-chuyen-doi-so-trong-nganh-ngan-hang-tai-cac-nuoc-tren-the-gioi-va-viet-nam-64320.html, cập nhật ngày 25/11/2024.
7Phạm Thị Phương Uyên (2024), “Chuyển đổi số của ngân hàng thương mại tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công Thương, số 8, tháng 4, tr. 327-331.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Đoàn Thị Cẩm Thư (2022), “Chuyển đổi số ngành ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam”, Tạp chí điện tử Ngân hàng, truy cập tại https://tapchinganhang.gov.vn/chuyen-doi-so-nganh-ngan-hang-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-hoc-doi-voi-viet-nam-11903.html
Trương Thanh Hà (2024), “Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 22, tr. 32-35.
Digital transformation in Vietnam’s banking industry: Current status and challenges
Bui Thi Hong1
Tran Nguyen My Linh1
Nguyen Thi Thu Nguyet1
1Department of Social Science Research and Information, Institute of Social Science Information
Abstract:
Digital transformation has become an inevitable trend across all sectors of economic and social life, with the banking industry at the forefront. In Vietnam, the banking sector has achieved significant progress in recent years, contributing notably to economic growth. Currently, over 87% of adults hold payment accounts at banks, and many institutions process more than 95% of transactions through digital channels. Between 2017 and 2023, the number of mobile payment and QR code transactions recorded an average annual growth rate exceeding 100%. Despite these remarkable achievements, the sector continues to face challenges related to infrastructure, security, customer readiness, and regulatory frameworks. This study analyzes the current status of digital transformation in Vietnam’s banking sector, identifies key obstacles, and proposes practical solutions to accelerate the digitalization process, thereby enhancing competitiveness and promoting sustainable development.
Keywords: digital transformation, banking industry, current situation, solutions.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 22 năm 2025]
