Nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Australia, Trung tâm năng lượng ASEAN, Viện Ngoại giao Na Uy, và Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy Việt Nam đang đi đầu trong ASEAN về phát triển điện mặt trời và điện gió.
Theo đó, từ năm 2019, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để trở thành quốc gia dẫn đầu ASEAN về công suất lắp đặt điện mặt trời và điện gió. Tỷ trọng điện mặt trời và điện gió trong cơ cấu điện của Việt Nam trong năm 2020 cũng tăng nhanh nhất khu vực ASEAN, cao hơn nhiều so với tốc độ đạt được ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới nói chung.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sản lượng điện mặt trời và điện gió của Việt Nam đã tăng gần 200%, từ 4,7TWh năm 2019 lên 9,5TWh vào năm 2020. Trong năm 2020, tốc độ tăng trưởng công suất điện gió tính theo năm của Việt Nam là 70%, trong khi các nước ASEAN khác không mở rộng công suất điện gió.
Dữ liệu của Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) cho thấy, tính đến cuối năm 2020, tổng công suất điện mặt trời của Việt Nam đạt khoảng 16.500 MW, vượt xa mục tiêu 850 MW được đặt ra cho năm 2020 và thậm chí là đang tiến gần đến mục tiêu được đặt ra cho năm 2030 là 18.600 MW. Nếu chỉ tính riêng trong năm 2019, Việt Nam đã lắp đặt hơn 100.000 hệ thống năng lượng mặt trời trên mái nhà.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tại ASEAN, không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia khác cũng có tiềm năng lớn về điện mặt trời và điện gió như Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Philippines. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam đã vượt xa các nước này trong việc khai thác điện mặt trời và điện gió.
Trong giai đoạn nghiên cứu được triển khai, Malaysia, Singapore và Indonesia đều tăng tỷ trọng về điện gió, điện mặt trời nhưng mức tăng thấp hơn khi so với Việt Nam. Đáng chú ý, tỷ trọng năng lượng mặt trời và gió trong tổng sản lượng điện lại giảm ở Thái Lan và Philippines, chủ yếu do chậm đầu tư thêm vào các nguồn năng lượng tái tạo.
Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh những động lực cơ bản cho sự thành công trong phát triển năng lượng mặt trời và gió của Việt Nam bao gồm mức giá mua điện từ nhà sản xuất năng lượng tái tạo (FIT) hấp dẫn, thuế thu nhập ưu đãi và miễn giảm tiền thuê đất. Ngoài ra, còn có các yếu tố quan trọng khác, gồm sự ủng hộ chính trị và xã hội rộng rãi cũng như môi trường đầu tư thuận lợi như đã thấy trong thời gian qua.
Tiến sĩ Đỗ Nam Thắng thuộc Đại học Quốc gia Australia, thành viên của nhóm nghiên cứu, cho biết từ trường hợp của Việt Nam có thể rút ra 6 bài học giúp các nước ASEAN tận dụng tối đa lợi thế thiên nhiên để phát triển điện mặt trời và điện gió.
Thứ nhất là cần có cam kết của các nhà lãnh đạo và sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng từ đó đưa ra nhiều chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thúc đẩy phát triển điện gió và điện mặt trời.
Thứ hai là mức mua giá điện từ nhà sản xuất năng lượng tái tạo (FITs) cao sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng mới.
Thứ ba là Việt Nam là quốc gia ASEAN duy nhất miễn giảm thuế thuê đất đối với các doanh nghiệp sản xuất năng lượng tái tạo nên đã tạo động lực để các doanh nghiệp đầu tư và tham gia vào các dự án năng lượng tái tạo.
Thứ tư là khác với các nước trong khu vực, Việt Nam khá thận trọng với việc áp dụng hình thức đấu thầu.
Thứ năm là Việt Nam có môi trường đầu tư khá thuận lợi cho các dự án năng lượng tái tạo.
Cuối cùng, nếu so với Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Việt Nam là quốc gia có mức trợ giá thấp nhất đối với nhiên liệu hóa thạch.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nếu các quốc gia đang phát triển có chính sách và cơ chế tài chính phù hợp thì có thể phát triển nhanh các dạng năng lượng tái tạo. Tiến sĩ Đỗ Nam Thắng nhấn mạnh “Quyết tâm chính sách và sự đồng thuận của xã hội là yếu tố chính của bài học thành công của Việt Nam”.