TÓM TẮT:
Ngành Dệt may là một trong những ngành quan trọng và đóng góp một phần đáng kể vào nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, dệt may là một trong những ngành mang lại giá trị xuất khẩu cao, đồng thời cũng giải quyết được rất nhiều lao động cho xã hội. Đây cũng là ngành nghề tập trung số lượng lớn lao động nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh nghề nghiệp cũng như an toàn lao động.
Trong khuôn khổ bài báo, nhóm tác giả nghiên cứu những vấn đề về thực trạng công tác an toàn, vệ sinh lao động ngành Dệt may Việt Nam, từ đó đề xuất với các cơ quan quản lý nhà nước một số biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác an toàn, vệ sinh lao động.
Từ khóa: An toàn lao động, vệ sinh lao động, các doanh nghiệp dệt may.
1. Xuất khẩu của dệt may Việt Nam năm 2016
Dệt may là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam, trong những năm qua dệt may luôn là ngành xuất khẩu chủ lực, có kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ hai trong số những ngành có kim ngạch xuất khẩu chủ yếu (đứng sau mặt hàng điện thoại và linh kiện), chiếm tới hơn 13% doanh thu xuất khẩu và đóng góp từ 10 - 15% tổng GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng của dệt may trong những năm gần đây đạt bình quân 17%/năm.
Hình: Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa năm 2016

Theo Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2016 của Bộ Công Thương, mặc dù ngành dệt may toàn cầu gặp nhiều khó khăn song xuất khẩu dệt may Việt Nam sang các thị trường lớn vẫn tăng trưởng ổn định. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả năm 2016 đạt 28,1 tỷ USD, tăng 3,3% so với năm 2015, chiếm 16% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong đó, xuất khẩu hàng may mặc đạt 23,8 tỷ USD tăng 4,6% so với năm 2015, xuất khẩu xơ sợi đạt 2,9 tỷ USD tăng khoảng 15,3% (BCT, 2017, tr.29/217). Riêng xuất khẩu xơ sợi được đánh giá là có mức tăng trưởng khá nhờ có sự bứt phá mạnh trong xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Bangladesh…
Hai loại sản phẩm áo jacket và áo thun chiếm tỷ trọng cao nhất trong số các sản phẩm may mặc xuất khẩu, chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc (trên 20% mỗi loại).
Thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam chủ yếu là 5 thị trường lớn là Hoa Kỳ, thị trường châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu sang cả 5 thị trường này đều tăng trưởng dương trong năm 2016, trong đó lớn nhất là Hoa Kỳ với kim ngạch hơn 11,7 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2015, chiếm khoảng 41% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam; xuất khẩu sang EU đạt 3,8 tỷ USD tăng 3,2%; sang Nhật Bản đạt 3,1 tỷ USD tăng 6,9%; sang Trung Quốc đạt gần 2,8 tỷ USD tăng 19,3% và sang Hàn Quốc đạt 2,7 tỷ USD tăng 14,3% (BCT, 2017, tr.29/217).
Trong số những doanh nghiệp dệt may xuất khẩu, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao nhất và luôn được duy trì từ năm 2010 đến nay. Năm 2016, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI xuất khẩu chiếm 57,7% kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước và đạt 16,6 tỷ USD.
2. Thực trạng công tác an toàn, vệ sinh lao động ở các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Hiện cả nước có khoảng 8.000 doanh nghiệp dệt may với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chiếm đa số, trong đó có hơn 4.000 doanh nghiệp nhỏ (dưới 200 lao động) và siêu nhỏ (dưới 10 lao động). Lực lượng lao động ngành Dệt may rất lớn, thu hút hơn 2,5 triệu lao động, trong đó lao động trực tiếp là 1,5 triệu người, chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công nghiệp và gần 13% tổng số lực lượng lao động toàn quốc (TCTK, 2016).
Mặc dù dệt may là ngành có lực lượng lao động lớn nhưng trên thực tế, vấn đề an toàn lao động và phòng chống các bệnh nghề nghiệp lại chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tỷ lệ công nhân ngành Dệt may bị mắc bệnh nghề nghiệp và gặp phải các vấn đề về tai nạn lao động rất cao. Kết quả khảo sát trên 1.000 công nhân may tuổi từ 25-35 của Viện Vệ sinh Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh tại 3 doanh nghiệp ở Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai, có tới 93% công nhân mệt mỏi sau lao động, trong đó 47% mệt mỏi toàn thân; 16,7% nặng đầu, nhức đầu; 15,1% kiệt sức; hơn 80% đau mỏi cơ, xương khớp tại thắt lưng, vùng cổ và bả vai (Phương Hà, 2012; Ngọc Tú, 2015)… Bệnh nghề nghiệp trong ngành Dệt may chủ yếu là bệnh bụi phổi bông, bệnh dãn tĩnh mạch chân. Bên cạnh những căn bệnh này, tỷ lệ công nhân dệt may mắc các bệnh viêm xoang, viêm mũi dị ứng, hen suyễn, viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp, viêm da, lãng tai, điếc nghề nghiệp… cũng rất cao.
Thông tư số 07/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xếp ngành Dệt may vào nhóm những ngành có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Năm 2015, với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong khuôn khổ dự án “Tăng cường tuân thủ tại nơi làm việc thông qua thanh tra lao động”, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện chiến dịch thanh tra lao động trong ngành Dệt may với 152 doanh nghiệp dệt may trên địa bàn 12 tỉnh, thành phố trong cả nước với mục tiêu nắm bắt tình hình thực hiện pháp luật lao động tại doanh nghiệp may, qua đó nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự tham gia tích cực của người sử dụng lao động cùng với tổ chức công đoàn vào công tác cải thiện điều kiện làm việc và tăng cường tuân thủ pháp luật tại nơi làm việc.
Nội dung của chiến dịch tập trung vào thanh tra việc chấp hành các quy định về thời giờ làm việc, về tiền lương, tiền công và việc thực hiện các quy định về an toàn, vệ sinh lao động cùng với các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Qua thanh tra đã phát hiện 1.786 sai phạm (trung bình 12 sai phạm/doanh nghiệp), các đoàn thanh tra lập 19 biên bản vi phạm hành chính để xử lý 19 doanh nghiệp với tổng số tiền xử phạt là 594 triệu đồng (BLĐTBXH, 2015).
Riêng đối với nội dung an toàn, vệ sinh lao động đã phát hiện hơn 1.000 sai phạm ở tất cả các doanh nghiệp được thanh tra. Các sai phạm xuất hiện ở tất cả các nội dung được thanh tra và tập trung ở các nội dung như: công tác đào tạo, huấn luyện về an toàn vệ sinh lao động cho các đối tượng đang làm việc tại doanh nghiệp; trang bị và sử dụng các phương tiện bảo vệ cá nhân của người lao động…
Trong số 152 doanh nghiệp được thanh tra có 90 doanh nghiệp người sử dụng lao động không tham gia huấn luyện an toàn vệ sinh lao động, 61 doanh nghiệp cán bộ làm công tác an toàn và 68 doanh nghiệp có người làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động không tham gia huấn luyện an toàn vệ sinh lao động. Theo quy định của pháp luật lao động, các đối tượng gồm người sử dụng lao động, cán bộ làm công tác an toàn và người làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động (lao động thuộc nhóm I, II, III) phải được đào tạo, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động và định kỳ 2 năm một lần phải được huấn luyện lại. Đối với lao động thuộc nhóm IV (những lao động không thuộc nhóm I, II, III và bao gồm cả người học nghề, tập nghề, thử việc) phải được đào tạo huấn luyện an toàn vệ sinh lao động lần đầu khi được tuyển dụng và định kỳ huấn luyện lại ít nhất mỗi năm một lần. Tuy nhiên, theo kết quả thanh tra, có 87 doanh nghiệp không tổ chức huấn luyện an toàn lao động cho người lao động thuộc nhóm IV, trong đó 59 doanh nghiệp không tổ chức huấn luyện cho người học nghề và người mới được tuyển dụng.
Hoạt động thanh tra cũng tập trung khoanh vùng rủi ro và chỉ ra những vi phạm đối với việc trang cấp và sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động. Nguồn gốc của những sai phạm này có cả ở người sử dụng lao động và người lao động, trong những vi phạm do lỗi của người sử dụng lao động thì có 44% là vi phạm trong việc cung cấp (không trang bị và trang bị không đầy đủ về số lượng phương tiện bảo vệ cá nhân theo quy định cho người lao động), 84% lỗi vi phạm của người lao động là không sử dụng và sử dụng trang bị bảo vệ cá nhân không đúng mục đích công việc.
Ngoài ra, còn có hơn 100 doanh nghiệp có sai phạm trong công tác lập kế hoạch an toàn, vệ sinh lao động hàng năm như không xây dựng kế hoạch hoặc xây dựng kế hoạch an toàn lao động nhưng không đảm bảo các nội dung theo quy định, không tham khảo ý kiến của đại diện người lao động hay tổ chức công đoàn khi xây dựng kế hoạch… 52 doanh nghiệp vi phạm trong công tác đo kiểm tra môi trường tại nơi làm việc định kỳ hàng năm (37 doanh nghiệp không tổ chức đo, kiểm tra môi trường lao động, 15 doanh nghiệp có tổ chức đo, kiểm tra nhưng không thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện, môi trường làm việc)…
Những số liệu kết quả của chiến dịch thanh tra trên cho thấy các doanh nghiệp dệt may chưa thực sự quan tâm tới công tác an toàn, vệ sinh lao động, còn để xảy ra nhiều sai phạm ở tất cả các khâu, các nội dung của công tác an toàn, vệ sinh lao động. Nguyên nhân của các vi phạm trên được nhận định là do tổng hợp của các yếu tố bao gồm nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động, nguyên nhân từ người lao động và nguyên nhân từ cơ chế chính sách pháp luật, quản lý của cơ quan nhà nước.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Còn hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động dẫn đến tình trạng người lao động và người sử dụng lao động không nắm được hoặc nắm bắt không đầy đủ các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thêm vào đó, một số nội dung của pháp luật lao động về an toàn, vệ sinh lao động chưa có văn bản hướng dẫn đầy đủ, kịp thời dẫn đến doanh nghiệp không biết hoặc biết nhưng khó thực hiện đúng. Các nội dung liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động tại doanh nghiệp có liên quan đến sự điều chỉnh của nhiều luật khác nhau, thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý khác nhau cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện. Lực lượng thanh tra, kiểm tra an toàn, vệ sinh lao động còn ít trong khi số lượng doanh nghiệp lớn nên công tác thanh tra không thực hiện được đầy đủ đối với tất cả các doanh nghiệp, vì vậy nhiều doanh nghiệp vi phạm nhưng không bị xử lý dẫn đến tình trạng vi phạm kéo dài và ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Đối với người sử dụng lao động do nhận thức còn hạn chế, chưa quan tâm đến quyền lợi của người lao động, chưa tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật về lao động, các quy định về công tác an toàn, vệ sinh lao động nên công tác an toàn, vệ sinh lao động được thực hiện tại doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức và nhằm đối phó với đoàn kiểm tra, thanh tra. Mặt khác, hiện nay các doanh nghiệp dệt may cũng còn rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ…, đa số các doanh nghiệp dệt may có quy mô nhỏ chủ yếu sản xuất cung ứng cho thị trường trong nước có tính cạnh tranh cao về giá, vì vậy doanh nghiệp chỉ quan tâm đến những gì cần ngay trước mắt phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận mà chưa chú ý đến các chính sách về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động. Hậu quả là doanh nghiệp không nắm được các quy định của pháp luật để thực hiện hoặc nắm được nhưng không đầy đủ dẫn đến thực hiện sai.
Ý thức chấp hành pháp luật của người sử dụng lao động cũng chưa tốt, doanh nghiệp nắm được các quy định của pháp luật về lao động nhưng để tiết kiệm chi phí nên cố tình không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về trang cấp thiết bị bảo hộ cho người lao động, bồi dưỡng bằng hiện vật cho người lao động, không tổ chức huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động, không đo kiểm môi trường lao động tại nơi làm việc hoặc không sử dụng các biện pháp cải thiện môi trường lao động sau khi đã có kết quả đo kiểm… Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác an toàn, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp dệt may hầu hết là kiêm nhiệm, không phải là chuyên ngành kỹ thuật nên dẫn đến tình trạng một số vi phạm trong công tác an toàn tại hiện trường sản xuất như vi phạm an toàn điện, vi phạm an toàn thiết bị nâng, thiết bị áp lực…
Người lao động ngành Dệt may còn hạn chế về nhận thức các quy định của pháp luật an toàn, vệ sinh lao động. Họ không biết hoặc không nắm được đầy đủ các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động nên không thể đề xuất, kiến nghị với người sử dụng lao động để đảm bảo doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định của pháp luật, hoặc người lao động biết các quy định của pháp luật nhưng đồng ý thoả thuận với người sử dụng lao động không thực hiện để được làm việc tại doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các công nhân may, do trình độ văn hóa còn thấp nên phần lớn công nhân không biết được những quyền lợi mà pháp luật lao động quy định. Một số người lao động không sử dụng phương tiện bảo hộ đã được cung cấp vì họ cho rằng chúng gây vướng víu trong các thao tác hoặc gây nóng bức, khó chịu…
Việc người sử dụng lao động chưa quan tâm, thiếu giải pháp, người lao động thiếu kiến thức, hiểu biết về an toàn, vệ sinh lao động dẫn đến việc không lường trước được các mối nguy hại tiềm ẩn như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ô nhiễm môi trường… có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà hậu quả là rất lớn, gây thiệt hại không chỉ về con người, kinh tế mà còn vi phạm pháp luật… (Nguyễn Thị Thanh Bình, 2015)
3. Đề xuất một số giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện tốt công tác an toàn, vệ sinh lao động
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan quản lý nhà nước cần phải có các biện pháp hỗ trợ để cho doanh nghiệp hiểu, nắm bắt được các quy định của pháp luật cũng như đánh giá được các rủi ro và phòng ngừa, bao gồm:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động để doanh nghiệp và người lao động nắm được và thực hiện.
- Tăng cường công tác thanh tra, xử lý nghiêm các hành vi cố tình vi phạm của doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người sử dụng lao động và bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An toàn, vệ sinh lao động đảm bảo đầy đủ và phù hợp với thực tế.
3.2. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp phối hợp cùng với Công đoàn cơ sở tổ chức thực hiện các giải pháp:
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, lựa chọn những cán bộ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm để phụ trách công tác an toàn, vệ sinh lao động.
- Nâng cao hiệu quả của công tác huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; tổ chức huấn luyện, đào tạo đầy đủ theo đúng đối tượng và thời gian đã được pháp luật quy định; nội dung huấn luyện cần phải ngắn gọn, thiết thực, chỉ rõ các công việc cần làm phù hợp với từng đối tượng; bố trí cán bộ chuyên môn tham dự đầy đủ các lớp tập huấn. Trong huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động cần chú trọng đào tạo kỹ năng phòng tránh tai nạn lao động, nhận biết rủi ro trong quá trình sản xuất cho công nhân lao động trực tiếp để giảm thiểu tai nạn lao động.
- Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết công tác an toàn, vệ sinh lao động hàng quý, hàng năm với các nội dung: Phân tích các kết quả, các thiếu sót, tồn tại và các bài học kinh nghiệm; tổ chức khen thưởng đối với các đơn vị và cá nhân làm tốt công tác an toàn, vệ sinh lao động; phát động phong trào thi đua đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người lao động thực hiện tốt các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; chấp hành nghiêm chỉnh các quy chuẩn, tiêu chuẩn, các biện pháp làm việc an toàn và phát hiện; xử lý kịp thời những hiện tượng thiếu an toàn, vệ sinh trong sản xuất. Tăng cường công tác tự kiểm tra đánh giá tại cơ sở nhằm phát hiện kịp thời và chấn chỉnh những sai phạm trong an toàn, vệ sinh lao động.
- Công đoàn phối hợp với bộ phận chuyên môn căn cứ trên cơ sở pháp luật hiện hành tổ chức rà soát, bổ sung, xây dựng chế tài xử phạt nghiêm những người vi phạm quy trình an toàn, vi phạm kỷ luật lao động, có những sai phạm trong quản lý, điều hành dẫn đến tai nạn lao động; xây dựng quy chế khen thưởng, động viên kịp thời những người phát hiện, ngăn chặn kịp thời những sai phạm, những nguy cơ có thể dẫn tới sự cố, tai nạn trong lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. BLĐTBXH [Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]. 2015. Báo cáo tổng hợp kết quả chiến dịch thanh tra lao động trong ngành may mặc năm 2015. Hội nghị tổng kết Chiến dịch thanh tra lao động năm 2015, Hà Nội, 16/10/2015.
2. BLĐTBXH [Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]. 2017. Thông báo tình hình tai nạn lao động năm 2016. Thông báo số 1152/TB-LĐTBXH ngày 28/3/2017. BCT [Bộ Công Thương]2017. Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2016.
https://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0ahUKEwiDvOz9vfrTAhUDgrwKHZ0QDrEQFgggMAA&url=http%3A%2F%2Fwww.moit.gov.vn%2FImages%2Feditor%2Ffiles%2FBC%2520XNK%25202016.pdf&usg=AFQjCNF4gkMX4yG-V6TILN-IPDYiqgw5tw&sig2=DAkMwDVbEkdy8MlLottkHA
3. TCHQ [Tổng cục Hải quan]. 2017. Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và 12 tháng năm 2016.
https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1038&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
4. TCTK [Tổng cục Thống kê]. 2016. Niên giám thống kê năm 2015.
5. Phương Hà (2015). Những căn bệnh tiềm ẩn của lao động dệt may. http://khampha.vn/suc-khoe/nhung-can-benh-tiem-an-cua-lao-dong-det-may-c11a360228.html
6. Ngọc Tú (2012). Bấp bênh thợ dệt - may. http://laodongthudo.vn/bap-benh-tho-det-may-9159.html
7. Nguyễn Thị Thanh Bình. 2015.Công tác vệ sinh, an toàn lao động đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn hội nhập. http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=212
8. Erwin Schweisshelm. 2016. Ngành Dệt may và Da giày trong bối cảnh TPP.
http://nghiencuuquocte.org/2016/03/16/nganh-det-may-va-da-giay-trong-boi-canh-tpp/
9. Better Work Vietnam. 2014. Báo cáo Tổng hợp về tuân thủ lần thứ 7. http://betterwork.org/vietnam/wp-content/uploads/BWV-B%C3%A1o-c%C3%A1o-T%E1%BB%95ng-h%E1%BB%A3p-l%E1%BA%A7n-th%E1%BB%A9-7.pdf
WORK SAFETY AND SANITATION FOR GARMENT ENTERPRISES
MA. DO DUY HOAN
Viet - Hung Industrial University
Assoc. Prof. PhD. TRAN THI BICH NGOC
Hanoi University of Science and Technology
ABSTRACT:
The textile and garment industry is one of the important sectors that significantly contribute to the Vietnamese economy. In the past years, textile and garment industry has been one of the industries that bring high export value and also solve unemployment issue. This occupation also concentrates a large number of workers, hence, there are potential occupational diseases as well as occupational hazards.
Within the scope of the article, the team investigates issues related to the situation of occupational safety and health in the textile and garment industry of Vietnam. Then, we suggest state management agencies a number of measures enterprises for occupational safety and health.
Keywords: Occupational safety, occupational health, garment enterprises.
Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 06 tháng 05/2017 tại đây