Chỉ vài năm trước đây thôi, câu chuyện Việt Nam không thể tự làm được bu lông - ốc vít cho sản phẩm điện tử của doanh nghiệp FDI vẫn còn được bàn tán qua lại. Có ý kiến cho rằng, không phải Việt Nam không sản xuất được, mà là sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất ra không đủ tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi giá trị của tập đoàn đa quốc gia.
Thế nhưng, ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước giờ đây không còn là nhân vật chính trong câu chuyện ấy nữa.
Và dịch Covid-19 đang chứng minh rõ hơn bao giờ hết sự thay đổi này.
Xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng sang Việt Nam
Theo Bộ Công Thương, dịch Covid-19 đã và đang gây ra cú sốc lớn cả về phía cung lẫn cầu cho nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng.
Trước tác động của dịch bệnh, những rủi ro vốn có trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với trọng tâm là sự dịch chuyển hoạt động gia công và các công đoạn tạo giá trị gia tăng thấp đến các quốc gia có nhân công giá rẻ và đông đảo – tiêu biểu là Trung Quốc, trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, dịch bệnh đã làm giảm các hoạt động trong chuỗi cung ứng toàn cầu lên tới 35,4%, khiến kinh tế thế giới rơi vào nguy cơ suy thoái lần đầu tiên kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Bên cạnh đó, dịch bệnh cũng được dự đoán sẽ khiến nhiều nền kinh tế lớn phải tiến hành tái cơ cấu lại chuỗi giá trị của các ngành sản xuất.
Đứng trước sự gián đoạn nguồn cung từ Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong nước đã quay trở lại thị trường sân nhà, khẩn trương liên hệ với Bộ Công Thương để tìm kiếm đối tác phụ trợ thay thế.
Không chỉ vậy, Bộ Công Thương cho biết các doanh nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam và một số tập đoàn, công ty trên thế giới cũng chủ động chuyển hướng sang sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hay nói cách khác, là “tái cơ cấu chuỗi giá trị sản xuất” như nhắc đến bên trên.
Công ty Cổ phần Sợi Thế Kỷ đã và đang nhận được nhiều đơn hàng mới của các nhà sản xuất ở Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan và Mỹ, góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng doanh thu trong bối cảnh toàn ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh.
Công ty Cổ phần Dệt lụa Nam Định thì cho biết lượng đơn đặt hàng đã tăng gấp đôi trong 2-3 tháng gần đây. Đáng chú ý, đây là một trong bảy doanh nghiệp của Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã chuyển hướng sản xuất vải kháng khuẩn để phục vụ nhu cầu khẩu trang chống dịch. Vậy là, trong lúc đảm bảo trách nhiệm xã hội về phòng chống dịch Covid-19, doanh nghiệp vẫn nắm bắt được cơ hội phát triển cho riêng mình.
Công ty Cổ phần Ô tô Trường Hải (THACO) cũng vừa phát đi thông cáo, cho biết cuối tháng 5/2020 sẽ xuất khẩu 69 sơmi rơmoóc sang thị trường Mỹ và ký kết hợp đồng phân phối sơmi rơmoóc với một doanh nghiệp của quốc gia này.
Mới đây, đại diện Trung tâm Phát triển Công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, có ít nhất 5 nhà sản xuất với thương hiệu lớn trên thế giới, gồm 2 doanh nghiệp Nhật Bản và 2 doanh nghiệp Hàn Quốc đang sản xuất tại Trung Quốc cùng một nhà sản xuất tại Đức đã đề nghị Trung tâm hỗ trợ tìm nhà cung cấp và đặt hàng sản xuất.
Đây là những doanh nghiệp chuyên sản xuất những mặt hàng điện tử gia dụng, máy móc công nghiệp đặt hàng những sản phẩm cơ khí chính xác, linh kiện điện tử, xi mạ,...
Công nghiệp hỗ trợ nắm bắt cơ hội
Tất nhiên, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến với sản phẩm phụ trợ Việt Nam không vì dịch Covid-19 mà giảm bớt đi tiêu chuẩn khắt khe của mình về nguyên phụ liệu, máy móc, linh kiện phục vụ sản xuất.
Để có thể đáp ứng các yêu cầu này, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thời gian qua đã không ngừng nỗ lực đổi mới, hướng đến nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
“Trong vấn đề nội địa hóa, chúng tôi đã nỗ lực tăng số lượng, hàm lượng chất xám Việt Nam trong các sản phẩm linh kiện để cung cấp cho những chiếc điện thoại, ô tô, xe máy, máy in, máy giặt… vốn đòi hỏi sự đầu tư bài bản, kỹ lưỡng vào nguồn vốn, công nghệ, con người”, đại diện Tập đoàn An Phát Holdings từng chia sẻ.
Theo đại diện Công ty Cổ phần Công nghiệp EuroCast cho biết, trong thời gian gần đây, xu thế rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quay trở về tìm các nhà sản xuất nguyên phụ liệu và sản phẩm phụ trợ trong nước, bởi đây không chỉ là sự lựa chọn tiết kiệm chi phí, chủ động thời gian mà còn thỏa mãn điều kiện chất lượng.
Đối với một số lô hàng nhập khẩu, đặc biệt từ các quốc gia gia công giá rẻ như Trung Quốc, do sản xuất đại trà số lượng lớn (mass production) nên nguyên phụ liệu, máy móc linh kiện có thể rẻ hơn một chút nhưng chất lượng dễ không đồng đều, tỷ lệ kích thước hay thành phần không đạt tiêu chuẩn như thỏa thuận ban đầu.
“Khi đã chuyển về Việt Nam mới phát hiện ra vấn đề lỗi sản phẩm thì để đổi lại cực kỳ phức tạp. Trong khi nếu sang tận nơi để kiểm tra trước và sau khi đặt hàng thì lại tốn kém thêm rất nhiều loại chi phí nữa”, doanh nghiệp chia sẻ.
Có thể ở phân khúc hàng phổ thông công nghiệp hỗ trợ của ta khó cạnh tranh, nhưng Việt Nam hiện đang tập trung nhiều vào sản xuất dòng sản phẩm có thiết kế, mẫu mã tương đối đẹp, ổn định về chất lượng và năng suất. Đặc biệt, với các sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường lớn có tiêu chuẩn khắt khe thì yếu tố này sẽ là thế mạnh để công nghiệp hỗ trợ trong nước thu hút đơn đặt hàng.
Cùng với đó, hàng loạt các Hiệp định Thương mại song phương và đa phương đã và đang được ký kết cũng tạo điều kiện cho dòng vốn chuyển dịch từ các nước về Việt Nam càng mạnh mẽ. Các doanh nghiệp quốc tế đương nhiên không bỏ qua cơ hội tiếp cận những ưu đãi về thuế quan và đầu tư từ FTA, tăng cường tiếp cận và khai thác hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam.
Không thể phủ nhận, với một ngành thâm dụng vốn và lao động như công nghiệp hỗ trợ, còn rất nhiều khó khăn, thách thức trước mắt cần vượt qua.
Nhưng, ở mặt tích cực, đã qua rồi thời "cái bu lông - con ốc vít", giờ đây công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang dần tiến từng bước, chủ động “biến nguy thành cơ”, tận dụng thế mạnh của mình để không chỉ đứng vững qua Covid-19 mà còn nắm bắt cơ hội phát triển lớn hơn trong giai đoạn hậu dịch bệnh.
Trong báo cáo mới đây Bộ Công Thương trình Chính phủ đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp công nghiệp, bên cạnh việc ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng, thuế phí, Bộ cho rằng cần sớm thông qua Nghị quyết về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Nghị quyết được thông qua sẽ tạo điều kiện để Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương thống nhất triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách nền tảng, đột phá nhằm phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong thời gian giới, với mục tiêu nâng cao sự tự chủ cho các ngành sản xuất nền tảng, cơ bản của đất nước.