Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý, nhằm xác định vị trí và đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ, hiện tại, đánh giá rủi ro, mức độ và hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Rất ít các số liệu tài chính mang ý nghĩa tự thân. Quan trọng hơn là mối quan hệ giữa các số liệu và xu hướng của chúng. Phân tích tài chính chủ yếu thiết lập mối quan hệ và chỉ ra sự thay đổi, xu hướng của các số liệu đó.
Như chúng ta biết, cơ cấu vốn của một DN gồm 2 phần cơ bản là vốn vay và vốn chủ. Khi một DN đang sử dụng đòn bẩy tài chính (finacial leverage) khá lớn hay có tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ cao, chẳng hạn là 3, phải chăng DN đó đang có vấn đề về tài chính? Trên thực tế, có loại hình DN hoạt động và phát triển phần lớn dựa vào vốn vay như các DN kinh doanh các loại hàng hoá tổng hợp (cửa hàng tạp phẩm) vì rủi ro mà các doanh nghiệp này có thể gặp phải là thấp (tất nhiên lợi nhuận không lớn). Ngược lại, có những loại hình DN sử dụng rất ít vốn vay, họ thực hiện hoạt động SX –KD phần lớn bằng vốn chủ như các công ty dược phẩm bởi rủi ro cao vì tính đặc thù của sản phẩm. Giả sử rằng, các điều kiện về kinh tế, xã hội dành cho các loại hình DN là như nhau, vậy câu hỏi đặt ra là việc phân tích tài chính, cụ thể là phân tích tình hình sử dụng đòn bẩy tài chính ở đây có liên quan gì đến đặc điểm kinh tế ngành của DN? Và đặc điểm kinh tế ngành ảnh hưởng như thế nào đến sự nhìn nhận về tài chính của các nhà đầu tư? Có thể nói, việc xác định đặc điểm kinh tế ngành của DN là yêu cầu quan trọng đầu tiên trong chuỗi các bước tương quan nhau trong quá trình phân tích tài chính của một DN. Nói khác đi, đặc điểm kinh tế ngành của một DN đóng vai trò then chốt trong việc làm sáng tỏ các mối quan hệ tài chính mà các nhà phân tích kỳ vọng nhận thấy trong tập hợp các báo cáo tài chính của DN đó. Để hiểu rõ hơn, bài viết xin được cùng luận bàn từ một tình huống sau.
Biểu số liệu dưới đây diễn tả tóm tắt các khoản mục trong Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh của 3 loại hình DN ở dạng con số phần trăm (%) so với doanh thu.Báo cáo tài chính tóm tắt của 3 doanh nghiệp, 31/12/200X
Công ty kinh doanh tạp phẩm
Công ty dược phẩm
Công ty cung cấp điện năng
Bảng cân đối kế toán
Tiền
0,7
11,0
1,5
Các khoản phải thu
0,7
18,0
7,8
Hàng tồn kho
8,7
17,0
4,5
Đất đai, nhà xưởng, thiết bị
22,2
28,7
159,0
Các tài sản khác
1,9
72,8
29,2
Tổng tài sản
34,2
147,5
202,0
Nợ ngắn hạn
7,7
30,8
14,9
Nợ dài hạn
7,6
12,7
130,8
Nợ phi ngắn hạn khác
2,6
24,6
1,8
Vốn chủ sở hữu
16,3
79,4
54,5
Tổng vốn
34,2
147,5
202,0
Báo cáo thu nhập
Doanh thu
100,0
100,0
100,0
Giá vốn hàng bán
(74,1)
(31,6)
(79,7)
Chi phí hoạt động
(19,7)
(37,1)
-
Chi phí nghiên cứu và phát triển
-
(10,1)
-
Chi phí lãi vay
(0,5)
(3,1)
(4,6)
Thuế thu nhập
(2,2)
(6,0)
(5,2)
Thu nhập ròng
3,5
12,1
10,5
Đặc điểm kinh tế ngành của các DN trên ảnh hưởng đến các mối quan hệ báo cáo tài chính của chúng theo nhiều cách khác nhau. Bài viết xin được phân tích, tình huống minh hoạ với 3 loại hình DN: Công ty kinh doanh tạp phẩm, Công ty dược phẩm và Công ty cung cấp điện năng.
Công ty kinh doanh tạp phẩm
Đối với loại hình kinh doanh này, các sản phẩm hàng hoá rất giống nhau về hình thức lẫn công dụng. Hay nói cách khác, sản phẩm của công ty này rất giống với sản phẩm của những công ty khác. Do vậy, việc gia nhập ngành của những công ty mới là tương đối dễ dàng hay rào cản gia nhập ngành là rất thấp. Điều kiện cần cho sự gia nhập ngành là thiết lập được mạng lưới phân phối sản phẩm và có không gian để phục vụ cho việc bán lẻ. Do đó, trong ngành này, sự cạnh tranh luôn luôn mạnh mẽ và không tồn tại sự khác biệt giữa các sản phẩm, dẫn đến tỷ lệ lợi nhuận ròng trên doanh thu (profit margin) là tương đối thấp (trong trường hợp này là 3,5%)
Tuy nhiên, để tạo ra doanh thu, các công ty kinh doanh tạp phẩm chỉ cần một lượng tài sản có giá trị tương đối nhỏ. Trong trường hợp này, cứ 34,2 đồng đầu tư vào tài sản tạo ra 100 đồng doanh thu và trong 1 năm tài sản quay được 2,9 vòng (100%/34,2%). Cứ mỗi một vòng quay, 100 đồng tài sản sinh ra 3,5 đồng lợi nhuận ròng. Do đó, trong 1 năm công ty sẽ thu được 10,15 đồng từ 100 đồng đầu tư vào tài sản (= 3,5% x 2,9)
Công ty dược phẩm
Một đặc điểm quan trọng của ngành sản xuất dược phẩm là việc gia nhập ngành của các công ty mới tương đối khó khăn, hay rào cản gia nhập ngành cao hơn so với các hãng kinh doanh tạp phẩm mà chúng ta vừa phân tích trên. Thực tế, chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) cho việc chế tạo ra một loại thuốc mới của các công ty sản xuất dược phẩm là rất đáng kể. Chính vì dược phẩm là loại hàng hoá ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng, nên phải sau một quá trình đánh giá rất dài của Chính phủ, các hãng mới có thể nhận được đặc quyền sáng chế sản phẩm mới. Từ đặc quyền sáng chế này, các công ty mới có thể sản xuất và cung cấp các loại dược phẩm ra thị trường trong thời gian dài. Sự khó khăn trong việc gia nhập ngành này cho phép các hãng, các công ty sản xuất dược phẩm tạo ra tỷ lệ thu nhập ròng trên doanh thu (12,1%) cao hơn nhiều so với các hãng kinh doanh tạp phẩm trên.
Tuy nhiên, các hãng dược phẩm phải đối mặt với những rủi ro dễ mắc phải do tính đơn nhất của sản phẩm, cũng như rủi ro khi mà các đối thủ cạnh tranh sẽ phát triển những loại tân dược cao cấp hơn, tân tiến hơn. Lúc đó, những loại thuốc cũ sẽ bị lỗi thời hoặc sẽ hết hạn sử dụng do sức tiêu dùng yếu đi. Bởi những rủi ro kinh doanh trên mà các hãng dược phẩm có xu hướng ngày càng thắt chặt tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn, hay nói cách khác, họ thích sự an toàn hơn sự mạo hiểm bằng cách tài trợ cho tài sản bằng vốn chủ và giảm vốn vay đến mức nhỏ nhất có thể.
Công ty cung cấp điện năngTài sản chính của các công ty cung cấp điện năng là các thiết bị và các máy phát điện cần nhiều vốn. Do đó, đất đai, máy móc và thiết bị chiếm phần lớn giá trị trong bảng cân đối kế toán của loại công ty này.
Vì nhu cầu đầu tư lớn vào các loại tài sản trên, nên các công ty cung cấp điện năng có được vị trí độc quyền truyền thống trong phạm vi cụ thể theo sự cho phép của nhà nước. Đồng thời, nhà nước cũng quy định tỷ lệ hay mức tiền mà người tiêu dùng phải trả. Chính vì vậy có thể nói, theo lối mòn, các công ty trong lĩnh vực này thường đạt được tỷ lệ thu nhập ròng trên doanh thu (thu nhập ròng/doanh thu) cao (trong trường hợp này là 10,5%) để bù lại cho vòng quay tổng tài sản tương đối thấp (Doanh thu/Tổng tài sản bình quân), trong trường hợp này, vòng quay tổng tài sản là 0,495 = 100%/202%. Ví trí độc quyền và sự bảo hộ của Chính phủ giúp cho các công ty này giảm thiểu rủi ro tài chính và cho phép họ có thể vay nợ với tỷ lệ cao và thậm chí rất cao.
Các đặc điểm kinh tế ngành điện năng sẽ thay đổi rất nhanh nếu trong tương lai, Chính phủ có những cú huých mạnh mẽ trong việc loại bỏ vị trí độc quyền và việc quy định phí tiêu dùng như là các điều kiện bức chế của thị trường sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của các công ty điện năng.
Có thể nói, năng lực tài chính là yếu tố sống còn của sự tồn tại và phát triển một DN thuộc bất kỳ loại hình sản xuất kinh doanh nào. Sự lớn mạnh của DN luôn gắn chặt với các quyết định đầu tư và tái đầu tư của bên ngoài và chính DN. Các nhà đầu tư bên ngoài sẽ không vội vàng đưa ra quyết định chỉ vì sự quan sát thuần tuý về doanh thu, giá trị tài sản hay tỷ lệ vay nợ của DN... Ban giám đốc, các cổ đông hiểu rõ hơn khả năng của chính DN mình thông qua phân tích môi trường ngành để có chiến lược tài chính tối ưu và ra quyết định tái đầu tư phù hợp.
Hơn nữa, với tiến trình cổ phần hoá DN nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta, việc phân tích đặc điểm kinh tế ngành của DN sẽ là sự bổ trợ cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách, chiến lược cũng như các nhà quản lý DN, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong quá trinh thực hiện từ sự nhìn nhận đầy đủ hơn, toàn diện hơn về năng lực tài chính của DN.
Qua việc phân tích những con số cụ thể và sinh động có tính minh hoạ trong tình huống trên, một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng, việc xác định các đặc điểm kinh tế ngành có vai trò rất quan trọng trong phân tích tài chính, quá trình phân tích đầu tư cũng như trong hoạch định một số chính sách, chiến lược ngành có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của DN./.