Giá dầu thô và sản phẩm lọc dầu leo thang liên tục
Theo dõi diễn biến giá dầu thô từ đầu năm 2002 đến nay, nếu bỏ qua các thăng giáng đột xuất, ngắn ngày, thì khuynh hướng chung là tăng tuyến tính theo thời gian (Bảng 1).
Bảng 1
Đơn vị: USD/thùng
Loại dầu
2003 (quý)
8 tháng 2004 (tháng)
Q1
Q2
Q3
Q4
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
Dầu nhẹ -rập
28
23
26
27
28
27
28
29
30
32
35
40
Dầu Brent
29
26
28
29
30
31
32
33
34
38
41
45
Dầu WTI (Mỹ)
29
34
30
32
34
35
36
38
40
42
44
48
Đi đôi với giá dầu thô, giá các sản phẩm dầu lọc cũng tăng theo và đặc biệt trong quý IV/2003 và 8 tháng đầu năm 2004, tỷ lệ tăng giá cao hơn các năm trước.
Vì nước Mỹ tiêu thụ khối lượng xăng dầu lớn nhất thế giới nên chúng ta thử tham khảo giá xăng ở đây. Nếu cuối năm 2003, giá xăng bán lẻ tại các cây xăng Mỹ trung bình là 1,72 USD/gallon (1 gallon Mỹ = 3,78 lít) thì quý I/2004 lên 1,77 USD/gallon và bước sang tháng 5/2004 đã vượt 2 USD/gallon. Tại thời điểm hiện nay, nếu tính theo tiền đồng Việt Nam thì giá một lít xăng trung bình ở Mỹ là khoảng 10.300 đồng. Điều này dẫn đến những phản ứng gay gắt của người dân và đang là nguy cơ chính trị lớn đối với Tổng thống Bush trong lần bầu cử tới.
Giá xăng dầu ở thị trường Việt Nam cũng bị khuynh hướng tăng giá trên thế giới chi phối. Tuy nhiên, nhờ nhiều biện pháp can thiệp kịp thời của Chính phủ nên biến động giá ở nước ta chưa đến mức cao như trên thị trường thế giới.
Đương nhiên khi giá dầu thô, xăng dầu, khí đốt tăng cao thì toàn bộ nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển và những nước không có hoặc có ít nguồn tài nguyên chiến lược này. Các nước xuất khẩu dầu thô lớn như các nước OPEC, Nga, Na-uy, Mexico… tuy có thu nhập cao nhưng phần lớn lại là các nước nhập khẩu đủ loại hàng hoá từ sinh hoạt đến máy móc, thiết bị nên giá dầu cao cũng không phải luôn đưa lại tác dụng tích cực cho nền kinh tế và ổn định xã hội của các nước đó.
Đâu là nguyên nhân?
Nguyên nhân của giá dầu cao dễ thấy nhất đối với nhiều người là chiến tranh I-rắc, rối loạn ở Trung Đông, Venezuela, Nigeria… Tuy nhiên, nguyên nhân thực tế phức tạp hơn nhiều.
Vấn đề giá dầu thô tăng theo thời gian là một khuynh hướng không thể đảo ngược, liên quan đến tình trạng cạn kiệt nguồn khai thác vì dầu thô là nguồn tài nguyên không tái tạo. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra các cuộc tranh luận gay gắt về tình trạng cạn kiệt dầu. Người ta nhận thấy rằng, trong các năm gần đây, các mỏ mới, lớn, phát hiện càng ngày càng ít dần, trong lúc các mỏ đang khai thác thì đang đi vào giai đoạn đỉnh điểm hoặc đang chuyển sang giai đoạn kết thúc. Theo thông báo của Trung tâm phân tích tình trạng cạn kiệt dầu (ODAC) có trụ sở ở London, thì năm 2000 có 13 mỏ mới được phát hiện với trữ lượng 500 triệu thùng trở lên, năm 2001 giảm xuống còn 6, năm 2002 phát hiện 2 mỏ và năm 2003 chỉ có 1 mỏ thuộc tầm cỡ nói trên. Các mỏ có trữ lượng trên 500 triệu thùng cung cấp đến 80% sản lượng dầu tiêu thụ trên thị trường thế giới, do đó hiện tượng cạn kiệt dầu trở thành một nguy cơ đối với toàn cầu. Trường phái bi quan cho rằng, sản lượng đỉnh điểm của thế giới sẽ xảy ra vào khoảng 2007-2015 và trường phái lạc quan thì cho rằng, thời điểm đó sẽ vào khoảng 2020-2030. Sau thời kỳ đỉnh điểm sẽ là thời kỳ cạn kiệt. Như vậy, sự khác nhau của 2 trường phái chỉ là thời điểm sớm hay muộn, còn bản chất hiện tượng không có gì khác nhau. Ngày nay, người ta phải đi tìm các mỏ nhỏ, mỏ biên, mỏ ở vùng nước sâu hoặc điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, công nghệ càng hiện đại, vận chuyển càng xa càng đắt tiền, nên giá thành thùng dầu mỗi ngày một tăng cao. Bên cạnh nguyên nhân nói trên thì một nguyên nhân khác cũng rất quan trọng, đó là nhu cầu dầu khí của tất cả các nước ngày một tăng cao, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhất là Trung Quốc, ấn Độ… Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước công nghiệp đều lo dự trữ dầu và tìm cách khống chế các nguồn cung dầu bằng các biện pháp quân sự, gây bất ổn định chính trị xã hội…
Nguyên nhân của giá các sản phẩm xăng dầu tăng cao, ngoài giá dầu thô (nguyên liệu lọc dầu) còn có tình trạng các nhà máy cũ phải nâng cấp hoặc xây dựng mới, công nghệ phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường cũng như để lọc các loại dầu nặng, dầu chua, chi phí đầu tư xây dựng đường ống dẫn hoặc đóng mới các tàu chở dầu hiện đại cộng với các hoạt động đầu cơ và các tác động chính trị càng đẩy giá xăng dầu lên cao. Cần phải nói thêm, chế độ thuế đánh vào xăng dầu của nhiều nước rất cao cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng làm tăng giá dầu.
Các nước xử lý như thế nào đối với giá dầu cao?
Giá dầu cao tác động tiêu cực đến toàn bộ các nền kinh tế thế giới, hạn chế tốc độ tăng trưởng, làm cho đời sống khó khăn và theo sau đó là những lộn xộn chính trị xã hội. Các nước xử lý vấn đề này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và tình hình tài nguyên của mỗi nước.
Các nước OPEC chủ trương giữ giá dầu cao một cách hợp lý theo lý luận của họ bằng cách điều chỉnh sản lượng chỉ để mức cung xấp xỉ mức cầu. Khung giá dầu thô của OPEC hiện nay là 22 – 28 USD/thùng, nhưng vì đồng USD mất giá nên xu hướng sắp tới sẽ là 30-35 USD/thùng. Với biện pháp này, OPEC vừa bảo đảm có thu nhập cao vừa giữ được nguồn tài nguyên mà họ tin là sau vài chục năm nữa, vai trò của họ trên thị trường dầu khí thế giới sẽ là tuyệt đối.
Các nước sản xuất dầu nhỏ hơn thì hoặc là tranh thủ khai thác để tăng nguồn thu, hoặc là hạn chế khai thác trong nước, mở rộng đầu tư khai thác ở nước ngoài, phụ thuộc vào nhu cầu ngân sách. Chủ trương tăng cường khai thác để xuất khẩu chứa một nguy cơ tiềm ẩn, bởi vì sau này họ sẽ là những nước nhập khẩu với giá dầu cao hơn rất nhiều lần. Các nước có tiềm năng tài chính thì phát triển chế biến trong nước để xuất sản phẩm lọc dầu, hạn chế tối đa xuất sản phẩm thô.
Các nước công nghiệp phát triển và các nước thiếu dầu khí thì chủ trương đa dạng hoá nguồn cung, đa dạng hoá nguồn nhiên liệu (sử dụng điện, hydro thay xăng hoặc sản xuất xăng dầu từ khí đốt, than đá, pha trộn xăng với cồn…), tiết kiệm năng lượng kể cả đánh thuế cao, nhằm hạn chế nhu cầu sử dụng, đồng thời đầu tư nghiên cứu các nguồn năng lượng mới. Để giữ cho giá xăng dầu nội địa ít biến động, các nước này rất tích cực lập kho dự trữ chiến lược, đặc biệt là Mỹ, mục tiêu dầu dự trữ phải đủ dùng trong 9 tháng, Trung Quốc mục tiêu này là 3 tháng. Các ngân hàng còn lập ra một quỹ lấy từ tiền lãi kinh doanh dầu thô và sản phẩm dầu khí của các công ty dầu để bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh dầu khí nhập khẩu khi giá xăng dầu thế giới tăng đột xuất. Các nước sản xuất dầu có trữ lượng vừa phải hoặc ít thì dùng quỹ này để tăng nguồn thu cho các công ty sản xuất dầu, bảo đảm kế hoạch nộp ngân sách do chính phủ quy định, thông qua hình thức bán dầu thô ảo để loại trừ hiện tượng phải khai thác, xuất khẩu thật nhiều khi giá dầu thế giới xuống thấp đột xuất. Hình thức này giúp cho Chính phủ không phải dùng tiền ngân sách để điều tiết giá xăng dầu và chuyển nhiệm vụ điều tiết này cho các doanh nghiệp dầu khí để đối phó với các lên xuống giá bất thường.
Tóm lại, các nước có các biện pháp rất đa dạng. Điều đáng nói là các biện pháp này nằm trong một chiến lược dầu khí và năng lượng được nghiên cứu tỉ mỉ, chứ không phải là những biện pháp tình thế như ta thường thấy ở những nước có trình độ quản lý kinh tế xã hội kém phát triển./.