Xuất phát từ vai trò quan trọng của phân phối, Đảng ta hết sức quan tâm đến việc cải tiến, từng bước hoàn thiện quan hệ phân phối. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức độ đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua quỹ phúc lợi xã hội”.
Như vậy có thể hiểu, cơ chế phân phối thu nhập ở nước ta bao gồm các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường (chịu ảnh hưởng của quy luật giá trị) và nguyên tắc phân phối của CNXH (chịu ảnh hưởng của quy luật kinh tế cơ bản và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền KTQD). Mặt khác, cơ chế phân phối bao gồm quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại.
1. Phân phối theo kết quả lao động và phân phối theo lao động:
Phân phối theo lao động tức là dùng thước đo số lượng, chất lượng lao động để đo mức độ cống hiến và hưởng thụ của người lao động.
Còn phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là phân phối dựa trên mức độ đạt được của lao động về chất lượng và năng suất lao động, hoặc dựa vào hiệu quả kinh tế, tức là lợi ích kinh tế đưa lại so với chi phí bỏ ra. Trong hiệu quả kinh tế có hiệu quả lao động. Hiệu quả lao động là so sánh giữa kết quả đạt được và khả năng của bản thân người lao động.
Như vậy, nếu xét về bản chất thì phân phối theo kết quả lao động thuộc phạm trù phân phối theo lao động. Tuy nhiên, mức độ phạm vi có khác nhau:
Trước hết phân phối theo lao động, theo quan niệm cũ, chịu sự chi phối hoàn toàn của quy luật kinh tế dưới CNXH. Tức là, sản xuất theo kế hoạch tập trung, theo mệnh lệnh, dù rằng sản phẩm có thể không được tiêu thụ. Hệ quả là lao động không được xã hội thừa nhận, sản xuất kém hiệu quả, dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh và do đó kìm hãm sản xuất phát triển.
Thứ đến, quy luật phân phối theo lao động dưới CNXH cho rằng, thước đo mức độ cống hiến và hưởng thụ của người lao động là số lượng, chất lượng lao động dần mất đi, nhường chỗ cho nhu cầu của người lao động (giai đoạn chủ nghĩa Cộng sản). Hình thức sản phẩm mà người lao động nhận được từ xã hội Chủ yếu là hình thức sản phẩm vật chất còn dưới hình thái giá trị sẽ thu hẹp dần. Hơn nữa, dưới CNXH không có mâu thuẫn về lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Ngược lại, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chịu ảnh hưởng của quy luật giá trị tức là phải trao đổi ngang giá. Lao động chỉ được trả công khi được xã hội thừa nhận (tức là sản phẩm được xã hội thừa nhận). Nếu sản xuất có hiệu quả thì phát triển, sản xuất kém phải đóng cửa. Điều đó đã đẩy mạnh cạnh tranh, tạo động lực của sự phát triển.
Vấn đề đặt ra là phải đánh giá được hiệu quả lao động. Trong cải cách tiền lương tới đây, rất cần thiết phải mở rộng hơn nữa quyền tự chủ của các chủ doanh nghiệp trong phân phối thu nhập. Bảo đảm nguyên tắc người làm nhiều (năng suất cao, chất lượng và hiệu quả tốt) được hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít…
Có ý kiến cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì đương nhiên người lao động được nhận khoản thu nhập tương đương giá cả sức lao động của mình thông qua thoả thuận với chủ doanh nghiệp. Còn kết quả lao động hay hiệu quả kinh tế là do hoạt động của nhà quản lý mà không liên quan tới người lao động. Tức là, thu nhập của người lao động không phụ thuộc vào kết quả lao động, mà phụ thuộc vào thoả thuận 2 bên. Chúng tôi cho rằng điều đó đúng nhưng không đủ. Đúng vì nó gắn với kinh tế thị trường, nhưng chưa đầy đủ ở chỗ chưa gắn thu nhập với tinh thần trách nhiệm của người lao động. Mặt khác, về phương diện quản lý, người sử dụng lao động trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh họ cũng đã phải tính toán vấn đề sử dụng lao động với kết quả mà người lao động tạo ra. Thực tế hiện nay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các nhà quản lý cũng đã tiến dần đến việc trả lương theo công việc và hiệu quả công việc.
2. Phân phối theo mức độ đóng góp các nguồn lực:
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong nền kinh tế thị trường. Muốn có thu nhập thì phải bán các yếu tố sản xuất thuộc quyền sở hữu của mình như vốn, lao động, đất đai, công nghệ, kỹ thuật…Vận dụng vào điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có, hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ… nhằm hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất.
Như vậy, mọi nguồn lực đóng góp vào sản xuất phải được hưởng phần lợi ích tương xứng với hiệu quả mà nó mang lại. Đây chính là “quyền sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế” theo cách nói của các nhà kinh điển.
Đất đai, tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân. Do đó, lợi ích do nó mang lại tất yếu phải thuộc về Nhà nước. Vì thế, cần có biện pháp để tính đúng, tính đủ các nguồn lực này. Chống mọi biểu hiện coi đây như là lợi ích mà tập thể người lao động tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đương nhiên được hưởng thụ.
Khi phân phối theo nguồn lực đóng góp thì mọi thành viên đều tham gia quản lý. Nhờ đó, hiệu quả quản lý sẽ cao hơn, người ta sẽ tìm cách để doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Có thể nói, đây là chìa khoá quan trọng thúc đẩy sản xuất, nhất là trong các lĩnh vực độc quyền. Chúng tôi cho rằng, cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn.
3. Phân phối thông qua quỹ phúc lợi:
Như đã phân tích, cơ chế phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chịu ảnh hưởng của 2 loại quy luật kinh tế. Xuất phát từ thực tế khách quan dưới CNXH tồn tại đan xen 2 hình thức sở hữu chủ yếu: Sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Hai hình thức này vừa hỗ trợ nhau vừa mâu thuẫn với nhau, trong đó sở hữu công cộng đã được Đảng khẳng định là giữ vai trò chủ đạo. Nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường. Điều đó đòi hỏi tất yếu khách quan là phải tiến hành phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Ta biết rằng, phần giá trị thặng dư (m) không phải hoàn toàn là của chủ doanh nghiệp (kể cả các doanh nghiệp tư bản ngày nay). Mà trong đó có một phần trích lại để phân phối lại cho người lao động thông qua các phúc lợi xã hội. Thường thì phần lợi nhuận sau thuế được các doanh nghiệp trích một phần làm quỹ phúc lợi theo quy định thống nhất của Nhà nước.
Phân phối thông qua quỹ phúc lợi còn thể hiện ở chỗ điều tiết thu nhập. Đánh thuế thu nhập của những người có thu nhập cao hỗ trợ người nghèo. Đầu tư cơ sở hạ tầng để phát triển nông thôn, rút dần khoảng cách nông thôn, thành thị.
Đảng ta đã đề ra các giải pháp: Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tiếp tục tăng nguồn vốn xoá đói giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng, trợ giúp người nghèo sản xuất kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm và nghề phụ, nhằm tăng thu nhập của các hộ nông dân. Thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, phải cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro bất hạnh.
Tóm lại, phân phối thu nhập, tiền lương, tiền thưởng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tổng thể cơ chế quản lý kinh tế xã hội. Phân phối đúng sẽ tạo thành động lực, ngược lại sẽ là lực cản sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, trong cải cách tiền lương tới đây cần chú ý quán triệt hơn nữa quan điểm, đường lối cải cách tiền lương đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, từng bước tạo lập và phát triển thị trường sức lao động./.