Quanh năm đỏ lửa
Từ xưa, Đa Hội đã nổi tiếng trong cả nước về nghề kim khí, các sản phẩm của họ chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp đã được bà con nông dân khắp nơi biết đến. Vào khoảng những năm 90 của thế kỷ trước, kinh tế thị trường mở ra hướng phát triển đầy hứa hẹn. Khởi đầu, một số gia đình mạnh dạn mở rộng sản xuất làm thêm cửa xếp, sắt dây, đinh, ốc vít, bản lề, dao kéo, các loại dây buộc, sắt dây, sắt phi 6, 8, 10, 12, 14… các loại sắt chữ V, T, U… Các sản phẩm này đã nhanh chóng chiếm được niềm tin của khách hàng. Bộ mặt xóm làng cũng rạng rỡ hẳn lên, đâu đâu cũng nghe tiếng đe, tiếng búa chát chúa. Người dân nhộn nhịp đi thu mua đồng nát khắp nơi, tạo ra một không khí lao động đầy sôi động. Nhưng khi nhu cầu của khách hàng ngày càng cao hơn, thì những khó khăn mới lại phát sinh. Thiếu nguyên liệu trầm trọng, công nghệ sản xuất quá lạc hậu, sản phẩm của làng làm ra bị “bóp” chết trên thị trường. Có thời, người dân Đa Hội suốt ngày đánh vật với nghề rèn. Thế rồi một vài cá nhân liều lĩnh, mạo hiểm đi tiên phong hùn vốn đầu tư xây dựng lò luyện phôi sắt, mua sắm các dây chuyền cán thép, máy đột dập của Ba Lan, Đức, Trung Quốc... Một thời gian sau thấy nhiều người làm ăn được, vậy là cả làng thi nhau đầu tư các công nghệ mới, rồi thuê các chuyên gia, thợ kỹ thuật, công nhân về vận hành, còn nguyên liệu thì được nhập từ cảng Hải Phòng (như phôi sắt của Nhật) và đồ sắt phế thải được gom từ các địa phương khác ùn ùn chở về. Từ đây, qua nhiều công đoạn mà cho ra các sản phẩm như thép vuông, thép gai, sắt tròn các cỡ, gang nút làm đinh, dây mạ. Bây giờ, nghề tái chế sắt thép của Đa Hội đã phát triển rầm rộ, người dân Đa Hội không chỉ hành nghề ở quê, mà còn mở rộng cơ sở sản xuất ra nhiều tỉnh trong cả nước, thậm chí có người đã sang tận Lào mở xưởng sản xuất.
Theo số liệu tổng hợp, đến nay, số cơ sở hoạt động sản xuất sắt thép Đa Hội đã lên đến hơn 600 cơ sở. Riêng cụm công nghiệp Châu Khê có 159 cơ sở, 415 cơ sở còn lại nằm tại làng Đa Hội và lân cận. Lao động thực tế của xã Châu Khê tham gia trong các cơ sở sản xuất sắt thép là 2.969 người. Ngoài ra, còn có từ 2.000 – 3.000 lao động ở địa phương khác tham gia. Những sản phẩm của Châu Khê được thống kê hàng năm là thép cán kéo, phôi đúc và đinh các loại. Sản lượng thép cán kéo năm 2005 đạt 112.000 tấn (giá trị 300 tỷ đồng), phôi thép 60.000 tấn, đinh các loại 60 tấn.
Và cái giá phải trả
Giàu có chưa hẳn đã là tất cả. ở Đa Hội đang tồn tại một vấn đề đáng quan ngại, đó là tai nạn nghề nghiệp, ô nhiễm môi trường và sức khoẻ của người lao động cũng bị đe dọa. Toàn xã có hơn 100 hộ có bể mạ, hàng chục máy đột dập và nhiều lò luyện phôi thép, hàng ngày thải ra một lượng lớn các hoá chất như dung môi kiềm, axít, sơn công nghiệp, chất dầu, mỡ... Các tác nhân gây hại ấy không chỉ tồn tại xung quanh khu vực lò mà còn toả ra khắp vùng, gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, đất canh tác nông nghiệp, tàn phá cảnh quan môi trường nông thôn. Đấy là chưa kể đến mối đe doạ tai nạn lao động đối với công nhân làm thuê ở đây khi họ hàng ngày, hàng giờ làm việc máy đột dập, cán ép, tiếp xúc với các loại sắt thép để lâu năm dộc hại, còn môi trường lao động thì nóng nực, khí độc, khói bụi từ các lò luyện thép gây ra.
Theo nhiều nghiên cứu gần đây, tình trạng ô nhiẽm môi trường ở các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh đã đến mức báo động cao mà điển hình chính là làng nghề sắt thép Đa Hội (Châu Khê), các lò nung sắt thép nhiệt lượng cao hoạt động suốt ngày đêm, lượng khí thải CO2, SO4... nhiều làm cho bầu không khí đến mức nghẹt thở vì khí độc. Lượng nước thải công nghiệp, phế thải công nghiệp, xỉ than, xỉ sắt thép, đỏ dồn ra cả ao, hồ, sông, suối… các loại thủy sinh bị tiêu diệt vì lượng độc tố cao. Nguồn nước sinh hoạt của nhân dân địa phương cũng đang bị ô nhiễm nặng...
Một điều đáng nói là, người dân Đa Hội chính gốc thì chẳng ai đích thân tham gia sản xuất cả, bởi họ biết rằng, trong công việc nặng nhọc đó, luôn tiềm ẩn những hiểm nguy về tai nạn, sức khoẻ, bệnh tật… Vì vậy, đa phần các chủ lò đều giao hết công việc này cho cai thầu, sau đó cai thầu chỉ đạo đám thợ từ khắp nơi đến làm thuê đảm trách. Mấy năm gần đây, năm nào Đa Hội cũng có từ 4 đến 5 vụ tai nạn gây chết người, mà nguyên nhân đều bắt nguòn từ sự coi thường các quy định về an toàn lao động.
Phải thừa nhận rằng, trong những năm gần đây, làng sắt Đa Hội đã phát triển một cách rầm rộ, tuy mới chỉ bó hẹp trong phạm vi hộ gia đình, mà chưa có sự quản lý hay kiểm chứng của một cơ quan chức năng nào. Bởi vậy, lâu nay, sắt Đa Hội vẫn phải bán chui lủi trên thị trường, rồi lẫm lũi đi vào đời sống dân sinh, chẳng biết được sắt đấy có đủ tiêu chuẩn hay không. Những thực tế những điều trên là có thật. Nhưng dẫu sao, đây vẫn là một nghề truyền thống và có sức phát triển rất tốt. Vì thế, trong tương lai, làng nghề Đa Hội cần phải được quan tâm hơn. Có điều, để khắc phục những tồn tại này, các cơ quan chức năng huyện Từ Sơn cũng như tỉnh Bắc Ninh cần sớm tìm ra giải pháp để thúc đẩy làng nghề phát triển hơn nữa.