TÓM TẮT:
Phân tích chi phí - lợi ích (Cost-Benefit Analysis - CBA) là một phương pháp hỗ trợ tìm ra giải pháp tốt nhất, giúp tìm ra một quyết định chấp nhận một phương án nào đó, được áp dụng như một công cụ đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của các dự án đầu tư trồng rừng. Bài báo này trình bày nguyên lý và một số mô hình áp dụng thực tế của phương pháp CBA trong lĩnh vực trồng rừng của thế giới cũng như trong nước.
Từ khóa: Phân tích kinh tế, phân tích chi phí - lợi ích, giá trị lợi nhuận ròng hiện tại, tỷ lệ lợi ích - chi phí, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ.
I. Đặt vấn đề
Rừng có khả năng sản xuất ra nhiều hàng hóa và dịch vụ, trong đó gỗ là một loại sản phẩm tiêu biểu nhất của rừng. Trồng rừng kinh doanh lấy gỗ là một hoạt động nổi bật của ngành Lâm nghiệp. Mô hình kinh tế của trồng rừng kinh doanh lấy gỗ là loại hình kinh tế có tính đặc thù của mô hình kinh tế sinh học, tức là mô hình kết hợp giữa mô hình sản xuất - chi phí với sinh trưởng gỗ theo thời gian. Kinh doanh rừng lấy gỗ có hiệu quả có nghĩa là lợi nhuận thuần của phương án trồng rừng phải dương. Có nhiều phương án khác nhau có thể lựa chọn để thực hiện trồng rừng kinh doanh lấy gỗ trên một đơn vị diện tích đất rừng cụ thể. So sánh hiệu quả kinh tế của các phương án đầu tư là nhiệm vụ của kinh tế rừng, giúp chủ rừng cũng như nhà quản lý có cơ sở để quyết định lựa chọn phương án đầu tư trồng và quản lý rừng có hiệu quả kinh tế cao. Phân tích Chi phí - Lợi ích (CBA) là phương pháp phân tích kinh tế được áp dụng từ lâu trong nhiều lĩnh vực đầu tư dự án hay chương trình có ý nghĩa kinh tế và xã hội. Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đề cập đến phân tích hiệu quả trồng rừng ở một số cơ sở trồng rừng tại một số địa bàn, liên quan đến một số loài cây, chủ yếu là gỗ Keo và tuổi khai thác chưa được so sánh. Nghiên cứu phương pháp CBA và áp dụng sâu hơn vào thực tế Việt Nam là vấn đề có tính cấp thiết.
II. Kết quả nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết về Phân tích chi phí - lợi ích (Costs - Benefits Analysis - CBA)
2.1.1. Sơ lược lịch sử sử dụng CBA
- Năm 1667, William Petty thiết lập các chương trình chống dịch bệnh ở London bằng phương pháp sử dụng CBA.
- Ở Mỹ, chính phủ Mỹ chấp nhận sử dụng CBA cho công tác của chính quyền từ năm 1902 và bắt buộc dùng với Đạo luật Kiểm soát lũ năm 1936.
- Ở Canada, chưa được thừa nhận về mặt pháp lý cho các cơ quan nhà nước ở cấp liên bang và cấp tỉnh.
- Hiện nay được dùng nhiều ở các nước trên toàn thế giới trong lĩnh vực đánh giá hiệu quả của một dự án đầu tư có ý nghĩa kinh tế và xã hội, kể cả trong lĩnh vực trồng rừng kinh doanh mà giá trị của rừng mang tính xã hội rất lớn.
Lý do phân tích CBA vì dễ áp dụng, là một khung phân tích thông dụng nhằm đánh giá một dự án cá nhân hay dự án công. Đối với dự án công, cần quan tâm đến giá trị lợi ích chung làm tiến bộ xã hội để đánh giá hiệu quả kinh tế. Đối với dự án tư nhân, lợi ích tài chính được quan tâm chủ yếu. Có 2 nguyên tắc để lựa chọn dự án:
(1) Theo giá trị lợi ích ròng lớn nhất (Maximization of net benefits) để lựa chọn một phương án trong số các phương án khả thi;
(2) Lựa chọn phương án có hiệu quả đầu tư cao nhất (Most cost effective). Hai nhân tố chính của quá trình ra quyết định là các chỉ tiêu về tỷ lệ lợi ích - chi phí (Benefit cost ratio - BCR) và giá trị lợi ích ròng hiện tại (Net present Value - NPV).
Trong phân tích CBA, tùy mục tiêu đánh giá mà lợi ích được tính toán; tùy theo bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể, để xác định các giá trị thu được theo giá sản phẩm gỗ trên thị trường và các giá trị xã hội và môi trường khác được qui định theo pháp luật. Ngày nay, tính toán phân tích CBA thường tính lợi ích cá nhân từ rừng trồng gồm 2 phần lợi ích có thể tính bằng tiền, đó là:
- Lợi ích từ gỗ;
- Lợi ích tín chỉ các bon.
Tuy nhiên, nhiều phân tích để đánh giá hiệu quả trồng rừng chỉ mới sử dụng lợi ích bán gỗ chứ không tính lợi ích về tín chỉ các bon vì chưa được vận dụng một cách hoàn chỉnh trong thực tế.
2.1.2. Nội dung phân tích CBA
Phân tích chi phí lợi ích cũng giống như phân tích tài chính (FA), nhưng mục tiêu và quan điểm phân tích của CBA mang tính toàn xã hội nên giá sử dụng để đo lường lợi ích và chi phí là giá ấn định, giá mờ.
Các chỉ tiêu phân tích CBA: NPV(Net Present Value), BCR(Benefit Cost Ratio), IRR (Internal Rate of Return).
Để tiến hành tính toán, các chỉ tiêu cần thể hiện các dòng lợi ích và chi phí theo thời gian, cụ thể như sau:

Trên cơ sở dòng lợi ích và chi phí, tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án theo các công thức sau:
1. Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (Net present value - NPV)
Khái niệm: Giá trị hiện tại thuần là tổng lãi ròng của cả đời dự án được chiết khấu về năm hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu nhất định.
Công thức:

hoặc

Trong đó:
Bi (Benefit): Lợi ích của dự án, tức là tất cả những gì thu được.
Ci: Chi phí của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án bỏ ra (Chi đầu tư, chi bảo dưỡng, sửa chữa, chi trả thuế và trả lãi vay…).
ri: Tỷ lệ chiết khấu.
n: Số năm hoạt động kinh tế của dự án (Tuổi thọ kinh tế của dự án).
i: Thời gian (i = 0,1,…,n).
Trường hợp Pi = (Bi – Ci) đều hàng năm
thì

Trường hợp Pi+1 = Pi + G hay P tăng đều 1 khoản là G thì:

Trường hợp Pi+1 = Pi – G hay P giảm đều 1 khoản là G thì:

2. Tỷ số lợi ích/ chi phí (Benefit/Cost – B/C)
Khái niệm: Tỷ số lợi ích/ chi phí là tỷ số giữa giá trị hiện tại của lợi ích thu được với giá trị hiện tại của chi phí bỏ ra.
Công thức:

Ưu điểm: Cho biết quy mô tiền lãi thu được của cả đời dự án.
Nhược điểm:
- NPV phụ thuộc nhiều vào tỷ suất chiết khấu dùng để tính toán. Việc xác định tỷ lệ chiết khấu là rất khó khăn trong thị trường vốn đầy biến động.
- Sử dụng chỉ tiêu này đòi hỏi xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của cả đời dự án. Đây là một công việc khó khăn, không phải lúc nào cũng dự kiến được.
- Chỉ tiêu này chưa nói lên hiệu quả sử dụng một đồng vốn.
- Chỉ tiêu này chỉ sử dụng để lựa chọn các dự án loại bỏ khác nhau trong trường hợp tuổi thọ như nhau. Nếu tuổi thọ khác nhau, việc lựa chọn căn cứ vào chỉ tiêu dự án loại bỏ nhau, có thể bỏ qua dự án có NPV lớn (vì thông thường phương án có NPV lớn thì có B/C nhỏ). Chính vì vậy khi sử dụng chỉ tiêu B/C phải kết hợp với chỉ tiêu B/C phi kết hợp với chỉ tiêu NPV và các chỉ tiêu khác nữa.
B/C lớn hay nhỏ còn tùy thuộc vào quan niệm về lợi ích và chi phí của người đánh giá. Cho nên khi sử dụng chỉ tiêu B/C để lựa chọn dự án phi biết rõ quan niệm của người đánh giá về lợi ích và chi phí tài chính.
3. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of returns - IRR)
Khái niệm: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ được biểu hiện bằng mức lãi suất mà nếu dùng nó để quy đổi dòng tiền tệ của dự án thì giá trị hiện tại thực thu nhập bằng giá trị hiện tại thực chi phí.
Công thức chính:

Hay

Trong đó:
Bi: Giá trị thu thập (Benefits) năm i
Ci: Giá trị chi phí (Cost) năm i
n: Thời gian hoạt động của dự án
Nếu dự án B/C lớn hơn hoặc bằng 1 thì dự án đó có hiệu quả về mặt tài chính. Trong trường hợp có nhiều dự án loại bỏ nhau thì B/C là một tiêu chuẩn để xếp hạng theo nguyên tắc xếp vị trí cao hơn cho dự án B/C lớn hơn.
Ưu điểm: Nổi bật là cho biết hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra.
Nhược điểm: Phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu lựa chọn để tính toán.
Có 2 phương pháp chính để tính toán chỉ tiêu IRR của dự án:
Phương pháp nội suy: Chỉ cần lựa chọn hai lãi suất chiết khấu cao và thấp, để cho hai giá trị NPV tương ứng. Một có giá trị âm và một có giá trị dương, sau đó áp dụng công thức:

Trong đó: r1 là lãi suất chiết khấu cho giá trị NPV1> 0,
r2 là lãi suất chiết khấu cho giá trị NPV2 < 0
Phương pháp hình học: Tương tự ý tưởng của phương pháp trên, ta biểu diễn chúng trên đồ thị, dùng hệ quả tam giác đồng dạng (hoặc phương pháp đại số) để xác định IRR = r tương ứng tại NPV bằng không.
Như các công thức nêu trên đã thể hiện, để thực hiện các bước phân tích Chi phí – Lợi ích (CBA) của một dự án trồng rừng cần xác định được giá trị gỗ của rừng theo thời gian sinh trưởng trong chu kỳ. Để thực việc tính được lượng gỗ trong tương lai trên một đơn vị ha rừng người ta cần nghiên cứu thiết lập hàm sinh trưởng gỗ. Tuy nhiên, đây là một công việc phức tạp và khó chính xác. Để tính giá trị lượng gỗ sinh trưởng đó, lại cần phải thiết lập được khung sản phẩm các loại và giá cả cho các loại sản phẩm đó. Đây cũng là một công việc cần có sự mô hình hóa cụ thể cho từng loại rừng.
Giá trị thuần của gỗ (Stumpage) trên một đơn vị diện tích rừng 1 ha được coi là một hàm theo tuổi cây được định nghĩa như sau:
S(t)=p(t).X(t) - c(x(t)
Trong đó: P(t) là giá sản phẩm theo thị trường của một đơn vị sản phẩm gỗ; x(t) là lượng gỗ; c(x(t) là chi phí chặt hạ và vận chuyển đến nơi bán. Trên cơ sở các giá trị thuần của sản phẩm gỗ thu được ở các tuổi tỉa thưa thương mại (tỉa thưa có sản phẩm thương mại) và chặt trắng để trồng lại hay kết thúc dự án là cơ sở để thiết lập dòng lợi ích. Các chi phí trồng, chăm sóc rừng là cơ sở để thiết lập dòng chi phí. Hiệu của 2 dòng lợi ích và chi phí sẽ là dòng giá trị lợi ích ròng (Net value flow). Tổng các giá trị ròng được qui về thời điểm hiện tại được gọi là giá trị hiện tại ròng (NPV).
Ý nghĩa của chỉ số NPV: Là chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá dự án theo nguyên tắc sau:
- NPV <0, dự án không hiệu quả, không nên đầu tư;
- NPV= 0, có thể đầu tư;
- NPV >0, dự án có hiệu quả;
Giá trị NPV càng lớn thì dự án càng có hiệu quả.
2.2. Một số nghiên cứu sử dụng CBA trong kinh tế trồng rừng trên thế giới và trong nước
2.2.1. Phân tích kinh tế trồng rừng trên đất nông nghiệp Canada (An economic analysis of afforestation on agriculture land in east central Saskatchewan), Desmond J. Sobool 2004.
Thực hiện tổ chức nghiên cứu khoa học bởi Bộ môn Kinh tế nông nghiệp, Trường Đại học Saskatchewan, Canada. Địa bàn nghiên cứu tại phía Đông, Trung tâm Saskatchewan.
Nội dung nghiên cứu đã chỉ ra phương pháp phân tích CBA và tính toán NPV cho các phương án sử dụng đất nông nghiệp, trong đó có phương án trồng rừng lấy gỗ với loại cây mọc nhanh Hybrid poplar với lợi ích kinh doanh gỗ và tín chỉ các bon.
Kết luận của nghiên cứu là phương án trồng rừng trên đất trang trại được nghiên cứu là phương án có hiệu quả kinh tế và có các giá trị về mặt xã hội và môi trường so với các phương án trồng cây nông vụ truyền thống mặc dù kinh tế trồng rừng ở đây chưa được phát triển.
2.2.2. Nghiên cứu phát triển nông lâm kết hợp tại các doanh nghiệp nông nghiệp ở khu vực Trans Danube (Joint development of agriculture and forestry in the agricultural ventures of Trans Danubium), Zoltan Andrasevits 2006 - Ph.D.Thesis.
Thực hiện nghiên cứu luận án tiến sĩ bởi Zoltan Andrasevits tại Viện kinh tế và Khoa học quản lý, Khoa Nông nghiệp, Đại học Pannonia Georgikon - Kesthely, Hung- Ga- Ry.
Nội dung nghiên cứu đã quan tâm đến phân tích so sánh kinh tế các phương án nông nghiệp và lâm nghiệp truyền thống với các phương án nông lâm kết hợp theo phương thức kỹ thuật mới. Dựa trên các chỉ tiêu BCR, IRR. NPV để đánh giá các phương án và chỉ ra các phương án có hiệu quả kinh tế và phù hợp với chiến lược quốc gia và EU.
Kết quả phân tích NPV cho thấy, phương án trồng rừng trên các vùng đất nông nghiệp kém thuận lợi là phương án có hiệu quả kinh tế và cả 2 phương án trồng Keo (Accia) và Sồi (Oak) theo phương thức truyền thống đều cho kết quả phân tích NPV dương, nhưng phương án trồng keo có NPV cao hơn. Các phương án trồng rừng với kỷ thuật mới và kết hợp cây nông nghiệp cũng nâng cao hơn hiệu quả kinh tế. Đặc biệt với phương án trồng rừng cây năng lượng (chất đốt) đạt hiệu quả cao nhất.
2.2.3. Phân tích kinh tế trồng mới rừng lá rộng (Economic Analysis of Broadleaf afforestation) - Irish Forest Industry Chain, 2007.
Nghiên cứu nhằm bước đầu đánh giá trồng rừng một loạt các cây lá rộng ở Ireland, vì có nhiều thông tin về giá cả và chi phí có thể nhận được trên thực tế, nên cần được phân tích lại.
Phương pháp tiếp cận là một loạt các loài cây
lá rộng với cấp năng suất được lựa chọn để nghiên cứu. Giá cả và chi phí được
lựa chọn theo các dữ liệu được áp dụng ở Anh và Ireland. Tuổi khai thác là chu
kỳ được đề xuất trên cơ sở kết hợp thực hành tốt nhất và tiêu chuẩn kỹ thuật
(về kích cỡ). Tỷ lệ chiết khấu được lựa chọn có tính bền vững về kinh tế là 5%.
Cuối cùng là với từng loài, từng cấp năng suất được đánh giá về kinh tế bằng
việc áp dụng phương pháp dòng vốn chiết khấu (Discounted cash flow - DCF). Để
so sánh kết quả của các loài cây với các và chu kỳ khác nhau, NPV được chyển
đổi sang AE (Annual equivalents).

Các kết quả phân tích NPV và AE được thay đổi theo sự hỗ trợ và chu cấp thêm của Nhà nước. Nghiên cứu phân tích cũng có đề cập đến giá trị môi trường của rừng và lợi ích chứng chỉ các bon của rừng theo qui định của EU.
2.2.4. Phân tích chi phí-lợi ích (CBA) đối với các thiết lập rừng trồng thông Scot, Thông áo và Vân sam (Cost-benefit analysis of establishment of scot pine, Austrian pine and spruce forest plantations) 2013 - Viện Lâm nghiệp - Belgrade, Serbia 2013.
Các giá trị của sản xuất trồng rừng với các loài cây được khảo sát đã được phân tích với 5 cấp phẩm chất đất, với các chu kỳ sản xuất khác nhau (20-140 năm) và với các tỷ lệ chiết khấu là 2,3,4,5,6,8,10 bởi vì đã được thiết lập rằng, trong sản xuất lâm nghiệp chiết khấu dưới 10% mới có hiệu quả đầu tư (Brumele, S.L.,et al.,1991).
Tác giả đã thiết lập một hệ thống biểu đồ về sự thay đổi của giá trị hiện tại của gỗ và chi phí theo độ dài chu kỳ sản xuất từ 20 -140 năm, với các tỷ lệ chiết khấu khác nhau, cho từng loài cây đã khảo sát, theo từng cấp phẩm chất đất. Kết quả cũng tính toán phân tích các điểm hòa vốn cho từng loài cây, với tỷ lệ chiết khấu và thời gian được xác định theo cấp phẩm chất đất.
2.2.5. Lợi ích kinh tế trồng rừng ở Thái Lan và Philippin (Economic profitability of afforestation in Thailand and the Philippines) - Ansi Niskanen 1997.
Nghiên cứu đánh giá lợi ích của các chương trình trồng rừng ở Đông Bắc Thái Lan và Philippin. Đánh giá lợi ích kinh tế và tài chính với việc sử dụng giá cả thị trường và các giá trị hiệu quả mong đợi đối với hàng hóa và các yếu tố được sản xuất. Có sự phân biệt giữa các giá trị lợi ích tài chính, lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế môi trường. Lợi ích kinh tế môi trường được định giá thêm giá trị tiền của chi phí về sói mòn đất, bốc hơi nước, bạc màu đất và tín chỉ các bon. Giá trị lợi ích kinh tế cao hơn 40-50% so với giá trị tài chính. Trong số các tác động môi trường của trồng rừng thì bốc hơi nước (bảo vệ nguồn nước) và tín chỉ các bon là trọng yếu nhất về thuật ngữ kinh tế. Giảm tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng giá trị lợi ích.
Với các phương án trồng rừng: Bạch đàn, chu kỳ 10 năm (MAI là 13,5 m3/ha.năm); Teak 25 năm (MAI=7,5 m3/ha.năm) ở Thái Lan; tại Philippin, keo 15 năm (MAI là 9m3/ha.năm), Mahagony 25 năm (MAI là 7,5 m3/ha.năm). Các chỉ tiêu phân tích: NPV xác định giá trị tài chính và giá trị mong đợi của đất (SEV), IRR là chỉ số chiết khấu mà ở đó NPV = 0. Khả năng lợi ích kinh tế được xác định bằng hiệu quả kinh tế được tính khi có tính đến các chi phí thuế hàng hóa.
Kết quả phân tích NPV cả về tài chính, kinh tế và kinh tế môi trường và chỉ ra sự biến động nhạy cảm của NPV và IRR theo năng suất rừng cũng như theo giá cả.
2.2.6. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả trồng rừng trong nước
- Đánh giá sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của keo lai ở Quảng Trị - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2012)
Dòng keo lai trồng bằng hạt sinh trưởng kém. Sản lượng rừng keo 7 tuổi biến động: 80,65-161,14 m3/ha; trung bình là 134 m3/ha. Tăng trưởng trung bình là 19,24 m3/ha/năm.
Doanh thu đạt 37,29 - 91,942 triệu đồng/ha/7năm. NPV: 12,73 - 38,79 triệu đồng/ha.
- Phân tích kinh tế trồng keo lai ở Bắc Cạn - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2011)
Dòng keo lai trồng bằng hạt sinh trưởng kém. Sản lượng rừng keo 7 năm tuổi biến động: 127,1-201,58 m3/ha; Doanh thu đạt 62,68-98,79 triêu đồng/ha.Giá trị hiện tại lợi nhuận ròng (NPV): 21,62 - 43,54 triệu đồng/ha, trung bình 33,48 triêu đồng/ha.
- Trồng rừng sản xuất qui mô hộ ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế. Mô hình hiệu quả và tiềm năng - Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế (2012)
Phân tích CBA của trồng rừng theo qui mô hộ gia đình và chỉ ra sự ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến sinh trưởng rừng, đến giá trị NPV với thời gian chu kỳ và tỷ lệ chiết khấu xác định. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định mô hình trồng rừng có hiệu quả.
III. Kết luận
CBA là công cụ phân tích kinh tế được áp dụng rộng rãi trên thế giới trong lĩnh vực phân tích các dự án đầu tư, nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế một dự án hay so sánh hiệu quả giữa các phương án, để lựa chọn phương án tốt nhất trong số các phương án có thể thay thế. Phương pháp này cũng đóng vai trò quan trọng và được sử dụng phổ biến rất có ý nghĩa trong kinh tế trồng rừng kinh doanh lấy gỗ.
Ở Việt Nam, CBA cũng đã được áp dụng để nghiên cứu hiệu quả kinh tế của một số mô hình trồng rừng qui mô hộ gia đình ở một số địa phương. Tuy nhiên, vai trò của ứng dụng CBA ở Việt Nam còn hạn chế về chiều sâu và chiều rộng. Chu kỳ sản xuất và tỷ lệ chiết khấu đóng vai trò quan trọng trong xác định giá trị NPV trong các dự án trồng rừng. Trồng rừng kinh doanh lấy gỗ với giá trị rừng được tính độc nhất từ bán gỗ cũng có khả năng hiệu quả tài chính. Giá trị kinh tế môi trường và giá chứng chỉ các bon đã được đưa vào lợi ích trong phân tích kinh tế trồng rừng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Duy Dương, Đánh giá sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của keo lai ở Quảng Trị,http://vafs.gov.vn/vn/category/tap-chi-khoa-hoc-lam-nghiep/năm-2012.
2. Trần Duy Rương, Phân tích kinh tế trồng keo lai ở Bắc Cạn, http://vafs.gov.vn/wp-content/uploads/ sites/2/2011/12/9-Ruong.-Bac-Kan-Keo-lai.pdf
3. Nguyễn Tài Phúc, Trần Minh Trí, Võ Vân Sơn. Trồng rừng sản xuất qui mô hộ ở huyện Nam Đông, mô hình hiệu quả và tiềm năng, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 3 năm 2012.
4. Desmond J. Sobool, an economic analysis of afforestation on agriculture land in east central Saskatchewan, University of Saskatchewan, Saskatoon, Canada (2004).
5. Zoltan Andrasevits, Joint development of agriculture and forestry in the agricultural ventures of Trans Danubium), Ph.D.Thesis (2006).
6. Henry Phillip, Economic Analysis of Broadleaf afforestation, Irish Forest Industry Chain (2007).
7. Mihailo Ratknic và Soja Braunovic,Cost-benefit analysis of establishment of scot pine, Austrian pine and spruce forest plantations, Viện Lâm nghiệp -Belgrade, Serbia (2013).
8. Ansi Niskanen, Economic profitability of afforestation in Thailand and the Philippines, Published online (2012).
ECONOMIC ANALYSIS OF AFFORESTATION:
PRINCIPLES AND PRACTICE
Master. VO THI HAI HIEN
Faculty of Economics and Business Adminsitration,
Vietnam National University of Forestry
ABSTRACT:
The Cost-Benefit Analysis (CBA) is considered one of the best tools to find the most pragmatic solutions and the most acceptable implementation of a project. This analysis has been applied as a tool to assess economical, social and environment effectiveness of forest plantation plans. This study introduces the principles of CBA and some models which apply CBA in practice in afforestation field of Vietnam as well as the world.
Keywords: Economic analysis, cost-benefit analysis (CBA), net present value (NPV), benefit-cost ratio (BCR), internal rate of return (IRR).
Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017 tại đây