Tóm tắt:
Bài viết phân tích quy định về bảo hộ tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam trong khuôn khổ Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định liên quan, trên cơ sở đó chỉ ra một số vướng mắc, bất cập và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu quả bảo hộ và bảo vệ quyền lợi của các kiến trúc sư, cá nhân và tổ chức tham gia thiết kế, sáng tạo tác phẩm kiến trúc.
Từ khóa: sở hữu trí tuệ, bảo hộ, tác phẩm, kiến trúc, pháp luật, quyền tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ.
1. Đặt vấn đề
Việc bảo hộ tác phẩm kiến trúc thông qua bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc không chỉ là vấn đề bảo vệ quyền lợi của các kiến trúc sư, cá nhân và tổ chức tham gia thiết kế, sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành kiến trúc, bảo tồn di sản văn hóa đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, sáng tạo. Bài viết tập trung vào hệ thống, phân tích các quy định liên quan và thực tiễn đến bảo hộ tác phẩm kiến trúc trong bối cảnh Luật Sở hữu trí tuệ và các Luật liên quan: Luật Kiến trúc, Luật xây dựng. Đồng thời đưa ra các đề xuất, kiến nghị để hoạt động bảo hộ tác phẩm kiến trúc ngày càng nâng cao hiệu quả.
2. Khái quát chung về tác phẩm kiến trúc và các nghiên cứu liên quan
2.1. Tác phẩm kiến trúc
Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đưa ra hai dấu hiệu của tác phẩm là: sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.
Tác phẩm kiến trúc là một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực kiến trúc, bao gồm các công trình xây dựng, tòa nhà, kết cấu và không gian được thiết kế và xây dựng dựa trên các yếu tố như ý tưởng, mỹ thuật, chức năng và kỹ thuật. Tác phẩm kiến trúc có thể là các công trình như các tòa nhà dân dụng, tòa nhà công cộng, cầu, nhà thờ, kiến trúc nội thất và các công trình kiến trúc khác. Tác phẩm kiến trúc thường được tạo ra bởi các kiến trúc sư và đội ngũ thiết kế, thông qua quá trình nghiên cứu, sáng tạo ý tưởng, thiết kế và thực hiện xây dựng. Tác phẩm kiến trúc không chỉ đáp ứng các yêu cầu chức năng và kỹ thuật mà còn mang trong mình giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ. Nó có thể tạo nên một không gian sống, làm việc hoặc giải trí độc đáo và đáng nhớ. Tác phẩm kiến trúc đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên hình ảnh của một thành phố, một quốc gia hoặc một vùng đất. Nó có thể phản ánh những giá trị văn hóa, lịch sử và xã hội của một cộng đồng, đồng thời tạo điểm nhấn độc đáo và đẹp mắt trong không gian xung quanh chúng ta.
Tác phẩm kiến trúc là những sáng tạo khác biệt và mang tính nghệ thuật, mỹ thuật trong lĩnh vực kiến trúc, đóng góp quan trọng vào việc hình thành và tạo dựng không gian sống, không gian làm việc của con người. Tác phẩm kiến trúc được hiểu là các bản vẽ thiết kế được thể hiện dưới mọi dạng hình thức nhằm thể hiện ý tưởng sáng tạo về công trình xây dựng hoặc quy hoạch, bố trí không gian (quy hoạch mặt bằng, quy hoạch xây dựng) đã tiến hành xây dựng hoặc mới ở giai đoạn hồ sơ thiết kế. Khoản 10 của Điều 6 trong Nghị định 17/2023/NĐ-CP làm rõ định nghĩa về tác phẩm kiến trúc quy định tại điểm i khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm thuộc loại hình kiến trúc, bao gồm:
Thứ nhất, bản vẽ thiết kế kiến trúc về công trình hoặc tổ hợp các công trình, nội thất, phong cảnh (đây là những bản vẽ chi tiết về cấu trúc và thiết kế của kiến trúc, bao gồm mô hình, bản vẽ kỹ thuật, bản vẽ kiến trúc, bản vẽ nội thất và bản vẽ về phong cảnh).
Thứ hai, công trình kiến trúc (Bao gồm các công trình đã tiến hành xây dựng hoặc mới ở giai đoạn hồ sơ thiết kế. Các công trình này có thể là ngôi nhà, tòa nhà, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu dân cư, công viên, khu du lịch và các công trình công cộng khác).
2.2. Các nghiên cứu liên quan
Nguyễn Kim Thoa (2015) cho rằng, cần tăng cường hợp tác với các nước và các tổ chức Quốc tế về quyền tác giả, việc làm này không những có ý nghĩa thúc đẩy sự sáng tạo, đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, tác phẩm với kiến trúc, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh lớn trong tiến trình hội nhập kinh tế tri thức với thế giới.
Theo Nguyễn Hồng Thái (2017), thực trạng về bảo hộ và đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc còn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả, chưa phản ánh đúng thực trạng phát triển ngành kiến trúc, xây dựng của Việt Nam hiện nay.
Lê Đông Hà (2017) trong một nghiên cứu đã dẫn chứng theo KTS Nguyễn Quốc Thông: “Ở nhiều nước phát triển, việc coi công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao là tác phẩm nghệ thuật đã được luật hóa từ lâu. Nhiều tác phẩm nghệ thuật, tác giả còn được ghi tên và tóm tắt lịch sử vào ngay công trình”.
Lê Thị Lan Phương (2022) cho biết, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là một dạng quyền sở hữu trí tuệ nên có những đặc điểm chung của quyền sở hữu trí tuệ như tính vô hình của các đối tượng bảo hộ, tính giới hạn về thời gian bảo hộ và không gian bảo hộ.
Thái Thanh Vân (2024) cho thấy, sở hữu trí tuệ giúp tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy phát triển bền vững trong tương lai. Ngoài ra, một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ hoàn chỉnh sẽ góp phần nâng cao hình ảnh và uy tín quốc gia trên trường quốc tế.
Thực tế, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến bảo hộ tác phẩm, quyền tác giả theo Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, chưa đặt việc bảo hộ tác phẩm kiến trúc cùng với các Luật chuyên ngành có liên quan: Luật xây dựng, Luật Kiến Trúc. Bài báo sẽ nghiên cứu về bảo hộ tác phẩm kiến trúc theo Luật Sở hữu trí tuệ, đồng thời với các Luật liên quan, nhằm làm rõ các khía cạnh quyền lợi, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức đối với tác phẩm kiến trúc.
3. Quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ tác phẩm kiến trúc
3.1. Sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ 2019, sửa đổi bổ sung năm 2022 (Luật Sở hữu trí tuệ 2022) quy định: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Quyền tác giả được quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, năm 2019, năm 2022): “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Quyền tác giả áp dụng cho các tác phẩm: Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định.
3.2. Tác giả, quyền tác giả
Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về tác giả như sau: Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 đã bổ sung, làm rõ các quy định, khái niệm về tác giả, đồng tác giả. Theo đó, tại khoản 4 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ quy định như sau: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm”. Trường hợp có từ 2 người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả. Luật cũng quy định rõ: ”Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả”. Việc quy định rõ như vậy sẽ tránh được các phát sinh, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả với các trường hợp có tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm nhưng không được công nhận là tác giả, đồng tác giả.
Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về quyền tác giả như sau: “Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản”. Khoản 3 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định: Việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả phải có sự thỏa thuận của các đồng tác giả, trừ trường hợp tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác hoặc luật khác có quy định khác. Với quy định này đã làm rõ về quyền tác giả đối với các tác phẩm có đồng tác giả. Việc sử dụng, công bố các sản phẩm phải có thỏa thuận giữa các đồng tác giả. Đặc biệt trong lĩnh vực kiến trúc, nếu tác phẩm kiến trúc được sáng tạo bởi một tập thể tác giả cùng tham gia với vai trò cá nhân hoặc trong tập thể do một tổ chức làm đại diện.
Khoản 2 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Tác giả sở hữu tác phẩm kiến trúc sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm của mình theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và được thực thi quyền tác giả theo quy định của pháp luật.
Khoản 2 Điều 12 Luật Kiến trúc 2019 về thiết kế kiến trúc quy định: Thiết kế kiến trúc phải do tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện thực hiện theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Các điều của Luật Kiến trúc 2019 liên quan quy định như sau: Điều 19 quy định về “dịch vụ kiến trúc”, điều 21 về “Điều kiện hành nghề kiến trúc” và điều 33 về “Điều kiện hoạt động và hình thức tổ chức hành nghề kiến trúc”. Có thể thấy, tác giả (cá nhân, tổ chức) sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc phải đảm bảo về điều kiện về năng lực hoạt động, trong ngành nghề theo quy định của Luật kiến trúc 2019. Đồng thời Nghị định số 175/2024/NĐ-CP ngày 30/12/2024 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xây dựng về quản lý hoạt động xây dựng, khoản 5 Điều 94 có nội dung: “Tổ chức tham gia hoạt động xây dựng quy định tại khoản 1 Điều này phải là doanh nghiệp, chi nhánh của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc tổ chức có chức năng tham gia hoạt động xây dựng được thành lập theo quy định của pháp luật, có ngành nghề phù hợp và đáp ứng các yêu cầu cụ thể đối với từng lĩnh vực hoạt động xây dựng theo quy định tại Nghị định này”.
Điểm i khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định tác phẩm kiến trúc thuộc loại hình tác phẩm “tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ” được bảo hộ quyền tác giả. Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”. Có thể thấy, tác phẩm kiến trúc không bắt buộc phải đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền tác giả sẽ được phát sinh kể từ khi tác phẩm kiến trúc được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Ngay khi tác phẩm kiến trúc được hoàn thành và chưa tiến hành các thủ tục đăng ký bản quyền liên quan đến tác phẩm, quyền tác giả vẫn sẽ phát sinh từ thời điểm tác phẩm kiến trúc được hoàn thành.
Khoản 2 Điều 49 Luật sở hữu trí tuệ quy định về đăng ký quyền tác giả, quyền liền quan như sau: “Việc nộp đơn để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật này”. Việc đăng ký quyền tác giả là không bắt buộc, tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi của mình cũng như tránh các tranh chấp có thể xảy ra về sau tác giả (cá nhân, tổ chức) nên đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Như vậy bảo hộ tác phẩm kiến trúc chính là bảo hộ quyền tác giả đối với tác giả (cá nhân, tổ chức) sở hữu tác phẩm kiến trúc.
3.3. Bảo hộ tác phẩm kiến trúc
Khoản 3 Điều 81 Luật Xây dựng 2014 về thi tuyển, tuyển chọn thiết kế kiến trúc công trình xây dựng quy định: Tác giả của thiết kế kiến trúc công trình xây dựng khi trúng tuyển hoặc được tuyển chọn được bảo hộ quyền tác giả, được ưu tiên lựa chọn để lập dự án đầu tư xây dựng và thiết kế xây dựng khi có đủ điều kiện năng lực theo quy định. Khoản 6 Điều 9 Luật Kiến trúc 2019 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động kiến trúc cấm việc: “Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động kiến trúc”. Quyền sở hữu trí tuệ ở đây là quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cần được bổ sung và làm rõ, nhất là đối với tác phẩm kiến trúc là một phần trong công trình xây dựng. Theo Luật Xây dựng 2014, sửa đổi bổ sung năm 2020 (Luật Xây dựng 2020), công trình được xây dựng khi triển khai có sự tham gia của các thành phần: Nhà thầu thiết kế xây dựng (Cá nhân, tổ chức) đủ điều kiện hành nghề tham gia thiết kế; tổ chức, cá nhân đầu tư (Chủ đầu tư, giữ vai trò chủ đầu tư do được giao quyền hoặc thực hiện nhiệm vụ chủ đầu tư); chính quyền (người quyết định đầu tư, cơ quan thẩm định hồ sơ thiết kế, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định). Do đó, các thành phần tham gia công trình xây dựng có thể cùng nhau thỏa thuận, trao đổi về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định có liên quan.
Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định về chi tiết hợp đồng xây dựng, nghị định 50/2021/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định rõ về hợp đồng xây dựng sử dụng trong các công trình đầu tư công, công trình có vốn ngân sách theo quy định đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân liên quan đến hợp đồng xây dựng thuộc các dự án đầu tư xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác sử dụng quy định theo hợp đồng này. Theo đó:
Thứ nhất, Khoản 1 Điều 1 Nghị định 50/2021/NĐ-CP quy định như sau: Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc xác lập và quản lý thực hiện hợp đồng xây dựng thuộc các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư công, vốn nhà nước ngoài đầu tư công và hợp đồng xây dựng giữa doanh nghiệp dự án PPP với các nhà thầu xây dựng thực hiện các gói thầu thuộc dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (gọi tắt là dự án PPP). Các tổ chức, cá nhân tham khảo các quy định tại Nghị định này để xác lập và quản lý hợp đồng xây dựng đối với các dự án sử dụng vốn khác.
Thứ hai, Khoản 1, 2, 3 Điều 2 Nghị định 37 quy định: Hợp đồng xây dựng là hợp đồng dân sự được thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc trong hoạt động đầu tư xây dựng. Bên giao thầu là chủ đầu tư hoặc đại diện của chủ đầu tư hoặc tổng thầu hoặc nhà thầu chính. Bên nhận thầu là tổng thầu hoặc nhà thầu chính khi bên giao thầu là chủ đầu tư; là nhà thầu phụ khi bên giao thầu là tổng thầu hoặc nhà thầu chính. Bên nhận thầu có thể là liên danh các nhà thầu. Điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định 37 quy định: “Hợp đồng tư vấn xây dựng (viết tắt là hợp đồng tư vấn) là hợp đồng để thực hiện một, một số hay toàn bộ công việc tư vấn trong hoạt động đầu tư xây dựng”.
Thứ ba, Điểm b khoản 1 Điều 31 Nghị định 10/2021/NĐ-CP quy định công việc tư vấn đầu tư xây dựng như sau: Thẩm tra Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng (nếu có), Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc Báo cáo kinh tế-kỹ thuật đầu tư xây dựng; thẩm tra thiết kế công nghệ của dự án (nếu có); thẩm tra phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thi tuyển phương án kiến trúc; thiết kế xây dựng công trình; thẩm tra thiết kế xây dựng công trình, dự toán xây dựng. Điểm a khoản 1 Điều 33 Nghị định 15/2021/NĐ-CP quy định: “Hồ sơ thiết kế xây dựng được lập cho từng công trình bao gồm: thuyết minh thiết kế, bản tính, các bản vẽ thiết kế, các tài liệu khảo sát xây dựng liên quan, dự toán xây dựng công trình, chỉ dẫn kỹ thuật và quy trình bảo trì công trình xây dựng (nếu có)”. Khoản 3 Điều 32 Nghị định 15/2021/NĐ-CP quy định: Nội dung chính của nhiệm vụ thiết kế xây dựng công trình bao gồm: a) Các căn cứ để lập nhiệm vụ thiết kế xây dựng; b) Mục tiêu xây dựng công trình; c) Địa điểm xây dựng công trình; d) Các yêu cầu về quy hoạch, cảnh quan và kiến trúc của công trình; đ) Các yêu cầu về quy mô và thời hạn sử dụng công trình, công năng sử dụng và các yêu cầu kỹ thuật khác đối với công trình.
Thời điểm quyền tác giả về tác phẩm kiến trúc trong lĩnh vực xây dựng có thể phát sinh từ thời điểm các bên thực hiện hợp đồng xây dựng về tư vấn trong lĩnh vực thiết kế xây dựng công trình theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Xây dựng.
Thứ tư, Điểm a khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 25 Nghị định 37 về Quyền và nghĩa vụ của bên giao thầu tư vấn thì quyền của bên giao thầu tư vấn như sau: Được quyền sở hữu và sử dụng sản phẩm tư vấn theo hợp đồng; còn nghĩa vụ của bên giao thầu tư vấn: Bảo đảm quyền tác giả đối với sản phẩm tư vấn có quyền tác giả theo hợp đồng. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 26 Nghị định 37 về Quyền của bên nhận thầu tư vấn như sau: Được đảm bảo quyền tác giả theo quy định của pháp luật (đối với những sản phẩm tư vấn có quyền tác giả). Có thể thấy, theo quy định ngành xây dựng đối với phần bản vẽ thiết kế kiến trúc có nội hàm tác phẩm kiến trúc thì tác giả (tổ chức, cá nhân) có vai trò bên nhận thầu tư vấn được giữ quyền tác giả, tuy nhiên bên giao thầu tư vấn lại có quyền sở hữu và sử dụng đối với sản phẩm, tác phẩm kiến trúc được hình thành trong quá trình thực hiện hợp đồng tư vấn xây dựng. Để đồng bộ với Luật Kiến trúc 2019, Luật Sở hữu trí tuệ trong tương lai khi ban hành quy định mới về Hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng cần bổ sung điều cụ thể quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu đối với tác phẩm kiến trúc và quyền lợi và nghĩa vụ các bên liên quan khi thực hiện hợp đồng.
Tóm lại, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 10 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP thì tác phẩm kiến trúc là tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ quyền tác giả. Bảo hộ tác phẩm kiến trúc chính là bảo hộ quyền tác giả đối với cá nhân, tổ chức sở hữu tác phẩm Kiến trúc, kể cả thiết kế kiến trúc công trình xây dựng khi trúng tuyển hoặc được tuyển chọn trong cuộc thi Thi tuyển, tuyển chọn thiết kế kiến trúc công trình xây dựng, quy hoạch xây dựng.
4. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả phổ biến đối với tác phẩm kiến trúc và thời hạn bảo hộ tác phẩm kiến trúc
4.1. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả phổ biến đối với tác phẩm kiến trúc
Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ về những hành vi xâm phạm quyền tác giả, những hành vi phổ biến trong xâm phạm quyền tác giả, trong đó có liên quan đến tác phẩm kiến trúc bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này. Hành vi thường thấy là sao chép bản vẽ thiết kế xây dựng trong đó có phần thiết kế kiến trúc mà không có ý kiến của cá nhân, tổ chức giữ quyền tác giả.
Thứ hai, sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. Hành vi thường thấy là lấy bản vẽ thiết kế xây dựng, trong đó có phần thiết kế kiến trúc đem kinh doanh thương mại tại các trang website, mạng xã hội, trên môi trường mạng internet, tại văn phòng các công ty thương mại liên quan đến xây dựng mà không có ý kiến của cá nhân, tổ chức giữ quyền tác giả.
4.2. Thời hạn bảo hộ tác phẩm kiến trúc
Quyền tác giả không bắt buộc phải đăng ký. Cá nhân, tổ chức là tác giả, hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có quyền đăng ký tác phẩm tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để được ghi nhận bảo hộ. Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Quyền tác giả phát sinh từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo và hoàn thành, và duy trì hiệu lực bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được quy định như sau:
Thứ nhất, Khoản 1 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung tại khoản 8 Điều 1 của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định: “Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn”. Theo đó thời hạn bảo hộ các quyền nhân thân đối với tác phẩm kiến trúc là vĩnh viễn đối với các quyền sau: 1. Đặt tên cho tác phẩm; 2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; 3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; 4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Thứ hai, Điểm a khoản 2 Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung tại khoản 8 Điều 1 của Luật Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định thời hạn cụ thể về Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 (quyền nhân thân về Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm) và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau: b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết; c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31/12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Vậy thời gian bảo hộ tác phẩm kiến trúc và nội dung bảo hộ phù hợp với quy định nêu trên.
Thứ ba, Điểm a khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Luật sở hữu trí tuệ 2009 quy định có liên quan đến tác phẩm kiến trúc khuyết danh có thời hạn cụ thể về Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 (quyền nhân thân về Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm) và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau: a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này.
Thứ tư, Điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 23 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định tác phẩm khuyết danh: Là tác phẩm không hoặc chưa có tên tác giả (tên khai sinh hoặc bút danh) trên tác phẩm khi công bố, đồng thời quy định về việc sử dụng các tác phẩm khuyết danh như sau: Tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng quy định tại khoản 1 Điều này phải nộp hồ sơ trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính tới cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sau khi đã nỗ lực tìm kiếm chủ thể quyền mà không thể tìm được hoặc không liên hệ được.
Về tác phẩm kiến trúc khuyết danh đề nghị có hướng dẫn chi tiết, vì khi Luật xây dựng và Luật kiến trúc được thực thi thì tác phẩm kiến trúc được hình thành và công nhận với với tổ chức, cá nhân có năng lực theo quy định pháp luật. Đối với tác phẩm kiến trúc khuyết danh trước thời điểm các quy định pháp luật có liên quan thực thi cần có hướng dẫn riêng (vì sẽ có nhưng tác phẩm kiến trúc được hình thành bởi những tổ chức, cá nhân không được áp dụng bởi các luật và các quy định về năng lực có liên quan).
5. Kết luận và kiến nghị
Bài báo đã tập trung phân tích các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ qua các giai đoạn triển khai và các quy định liên quan về bảo hộ tác phẩm kiến trúc. Thực tế cho thấy, đã có những quy định, hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn so với các luật trước đó góp phần bảo vệ quyền lợi của các tác giả kiến trúc. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần được giải quyết như việc xác định tính sáng tạo của tác phẩm kiến trúc, quy định về năng lực hành nghề của tác giả sáng tạo tác phẩm kiến trúc, vấn đề bảo vệ quyền lợi của tác giả trước những hành vi vi phạm xâm phạm quyền tác giả, quy định về quyền tác giả và quyền sở hữu, sử dụng đối với sản phẩm, tác phẩm kiến trúc đặt trong bối cảnh hợp đồng tư vấn xây dựng, trong hoạt động đầu tư xây dựng, về tác phẩm kiến trúc khuyết danh... Kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý về bảo hộ tác phẩm kiến trúc, cần có những nghiên cứu sâu hơn về thực tiễn thi hành luật, đồng thời bổ sung, sửa đổi một số quy định để phù hợp với đặc thù của tác phẩm kiến trúc, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế - xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Chính Phủ (2015). Nghị định số 37/2015/NĐ-CP, ngày 24/05/2015 quy định về chi tiết hợp đồng xây dựng.
Chính Phủ (2023), Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, ngày 26/04/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.
Chính phủ (2005). Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, ngày 29/11/2005.
Chính phủ (2020). Nghị định 10/2021/NĐ-CP, ngày 09/02/2021 quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng.
Chính phủ (2020). Nghị định số 85/2020/NĐ-CP, ngày 17/07/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc.
Chính phủ (2021). Nghị định số 15/2021/NĐ-CP, ngày 03/03/2021 quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng.
Chính phủ Nước CHXH Việt Nam (2021). Nghị định số 50/2021/NĐ-CP, ngày 01/04/2021 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định rõ về hợp đồng xây dựng.
Chính phủ (2024). Nghị định số 175/2024/NĐ-CP ngày 30/12/2024 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xây dựng về quản lý hoạt động xây dựng .
Lê Đông Hà (2017). Tác phẩm kiến trúc và "bài toán" bản quyền. Truy cập tại: https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/tac-pham-kien-truc-va-bai-toan-ban-quyen-520005.
Lê Thị Lan Phương (2022). Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo quy định của Pháp luật hiện hành. Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 239, tháng 08/2022, tr63-tr65.
Nguyễn Hồng Thái (2017). Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Kim Thoa (2015). Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo Pháp Luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Quốc hội (2009). Luật số 36/2009/QH12, ngày 19 /6/2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Quốc hội (2014). Luật Xây dựng số 50/2014/QH13, ngày 18/06/2014.
Quốc hội (2019). Luật Kiến trúc số 40/2019/QH14, ngày 13/06/2019.
Quốc hội (2019). Luật số 42/2019/QH14, ngày 14/6/2019 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ.
Quốc hội (2020). Luật số 62/2020/QH14, ngày 17/06/2020 của Quốc hội: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng.
Quốc hội (2022). Luật số 07/2022/QH15, ngày 16/6/2022 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Thái Thanh Vân (2024). Pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay: những thách thức và các giải pháp hoàn thiện. Truy cập tại: https://tapchicongthuong.vn/phap-luat-so-huu-tri-tue-o-viet-nam-hien-nay--nhung-thach-thuc-va-cac-giai-phap-hoan-thien-116749.htm.
LAWS CONCERNING THE PROTECTION OF ARCHITECTURAL WORKS
Nguyen Thanh Trung1 - Nguyen Xuan Bang2 - Tran Trung Kien2*
1 Faculty of Construction, Lac Hong University (LHU)
2 Faculty of Law, Ho Chi Minh City University of Technology (Hutech)
* Corresponding author: ttk1204@gmail.com
Abstract:
This study analyzes the provisions regarding the protection of architectural works in Vietnam within the framework of the Intellectual Property Law and related regulations. The study highlights certain challenges and issues within the current legal framework and proposes recommendations aimed at refining the legal system to enhance the protection of architectural works. These recommendations seek to improve the protection of the rights and interests of architects, individuals, and organizations involved in the design and creation of architectural works.
Keywords: intellectual property, protection, works, architecture.