![](https://tphcm.cdnchinhphu.vn/334895287454388224/2023/8/1/kcn-16908560350321929921428.jpg)
Bẫy thu nhập trung bình
“Bẫy thu nhập trung bình” được hiểu là tình trạng một quốc gia đạt đến một mức thu nhập nhất định nhờ những lợi thế sẵn có, nhưng chỉ dừng lại trong ngưỡng thu nhập ấy mà không thể tăng thêm để trở nên giàu có hơn. Bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một quốc gia phát triển chững lại hay thậm chí là trở nên trì trệ sau khi đạt GDP bình quân đầu người trong ngưỡng từ 1.000USD đến 12.000USD theo chuẩn của Ngân hàng Thế giới. Bẫy thường xảy ra tại các nền kinh tế đang phát triển khi mức lương tăng lên trong khi khả năng cạnh tranh về giá giảm xuống, khó có thể cạnh tranh với các nền kinh tế đã phát triển về công nghệ, hay với các nền kinh tế có mức lương thấp hơn trong việc sản xuất hàng hóa giá rẻ.
Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) phân tích, nhìn vào quá trình phát triển của các quốc gia khác nhau trong 60 năm qua, có thể thấy một số quốc gia thành công trong việc duy trì tăng trưởng liên tục để chuyển đổi từ nước có thu nhập thấp lên nước thu nhập cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore), trong khi đó một số quốc gia khác vẫn nằm trong mức thu nhập trung bình, mà chưa thể lên mức thu nhập cao (Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines). Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy năm 1966 Nhật Bản mới trở thành nước thu nhập trung bình, Singapore đạt GDP bình quân đầu người trên 1.000 USD vào năm 1971, Hàn Quốc và Malaysia cùng đạt ngưỡng này vào năm 1977, Thái Lan năm 1988, và Indonesia, Philippines năm 1995. Đến nay, GDP bình quân đầu người năm 2019 của các quốc gia này lần lượt là Nhật Bản 40.248 USD, Singapore 65.233 USD, Hàn Quốc 31.761 USD, Malaysia 11.414 USD, Thái Lan 7.808 USD, Indonesia 4.135 USD và Philippines 3.485 USD. Như vậy, trong các nước này, chỉ có Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã trở thành nước thu nhập cao, các nước còn lại vẫn ở trạng thái nước thu nhập trung bình. Quá trình đi lên từ nước thu nhập trung bình lên nước thu nhập cao của mỗi quốc gia khác nhau cả về thời gian và động lực phát triển. Nghiên cứu của ADB (2017) chỉ ra rằng thời gian trung bình để một quốc gia chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp lên thu nhập cao mất khoảng 30-40 năm. Nếu một quốc gia trong 40 năm kể từ khi đạt ngưỡng thu nhập trung bình mà chưa trở thành nước thu nhập cao, thì quốc gia đó được coi là đang mắc bẫy thu nhập trung bình. Nếu xét riêng từng nước thì thấy một số nước Đông Á đã rút ngắn rất nhiều thời gian chuyển đổi, Nhật Bản và Singapore mất 20 năm, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 6-8%/năm, Hàn Quốc chỉ cần 18 năm, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9%/năm. Malaysia có xuất phát điểm cùng Hàn Quốc, nhưng đến nay, sau hơn 40 năm, GDP bình quân đầu người mới đang tiệm cận với mức 12.000USD, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6%/năm. Xem xét quá trình phát triển của các nước chuyển đổi thành công từ nước thu nhập thấp lên nước thu nhập cao trong những thập kỷ trước sẽ cho các nước đi sau như Việt Nam những bài học kinh nghiệm hữu ích để tránh bẫy thu nhập trung bình.
Để xác định động lực của tăng trưởng, trước hết nhìn vào cơ cấu GDP của các nước trong quá trình chuyển đổi có thể thấy rõ sự giảm dần của nông nghiệp và gia tăng của công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, đặc biệt là đóng góp của ngành chế biến chế tạo trong GDP. Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, quá trình chuyển đổi của Hàn Quốc kéo dài từ năm 1977 đến 1995, trong khoảng thời gian đó, đóng góp của nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 22% xuống 5%, công nghiệp – xây dựng tăng từ 28% lên 36% (trong đó chế biến chế tạo tăng từ 21% lên 26%), và dịch vụ tăng từ 39% lên 49%. Quá trình chuyển đổi của Singapore kéo dài 20 năm, từ 1971 đến 1991, trong giai đoạn này, đóng góp của nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 3% xuống 0,2%, công nghiệp – xây dựng tăng từ 28% lên 33% (trong đó, chế biến chế tạo tăng từ 19% lên 25%), và dịch vụ giảm từ 64% xuống 63%. Malaysia mất hơn 40 năm, từ 1977 đến nay, để tăng GDP bình quân đầu người từ 1.000USD lên 11.000USD, có thể đạt ngưỡng quốc gia thu nhập cao trong một vài năm tới. Trong giai đoạn này, đóng góp của nông nghiệp đã giảm từ 28% xuống còn 7%, công nghiệp – xây dựng tăng lên mức cao nhất 49% năm 2004 rồi giảm dần về lại mức 37% năm 2019 (trong đó, chế biến chế tạo tăng từ 20% lên mức cao nhất 31% vào đầu những năm 2000 rồi giảm dần về mức 21% năm 2019), và dịch vụ tăng từ 33% lên 55%.
Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình từ năm 2008, trải qua hơn 10 năm, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam diễn ra chậm hơn so với các nước đi trước, lộ trình phát triển khá bằng phẳng, chưa tạo được bước đột phát ngay từ những năm đầu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Từ 2010 đến nay, đóng góp của nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 18,3% xuống 13,9%, công nghiệp – xây dựng tăng từ 32,1% lên 34,4% (trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng từ 12,9% lên 16,4%), và dịch vụ tăng từ 36,9% lên 41,6%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của Việt Nam trong 10 năm đầu đạt 6%, thấp hơn mức bình quân 10 năm đầu của các nước đi trước (Nhật Bản 7%, Hàn Quốc 8,9%, Singapore 8,8%).
Bẫy giá trị gia tăng thấp và nội lực ngành công nghiệp trong nước
Bên cạnh khái niệm “bẫy thu nhập trung bình”, khái niệm “bẫy giá trị gia tăng thấp” cũng được sử dụng để nói về tình hình phát triển kinh tế của một quốc gia. Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) mô tả một quốc gia mắc “bẫy giá trị gia tăng thấp” là khi quốc gia đó chủ yếu thu hút được FDI từ những doanh nghiệp không có ý định hình thành các mối liên kết với nền kinh tế trong nước, không tạo ra được hiệu ứng lan toả, và hoạt động với mục tiêu ngắn hạn, những doanh nghiệp đó có hiệu quả hoạt động thấp xét về mọi mặt: đầu tư, năng suất và phát triển kỹ năng, và đầu tư chủ yếu vào các ngành thâm dụng lao động, cạnh tranh bằng giá thay vì bằng chất lượng, thời gian giao hàng, và thường nhìn nhận lao động là yếu tố chi phí hơn là nguồn lực cần được phát triển.
Khái niệm của UNCTAD mới chỉ nhìn một chiều từ phía khu vực FDI, trong khi một quốc gia mắc “bẫy giá trị gia tăng thấp” có thể không chỉ do khu vực FDI, mà còn do những nguyên nhân khác, chủ yếu phụ thuộc vào khả năng tự lực tự cường của khu vực tư nhân trong nước, vào năng lực của khu vực tư nhân có thể trưởng thành, trở nên độc lập, làm chủ nền kinh tế và có đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn lực từ bên ngoài. Xét về bản chất, “bẫy giá trị gia tăng thấp” cũng là một biểu hiện của “bẫy thu nhập trung bình”, xảy ra khi một quốc gia không xây dựng được nền tảng công nghiệp trong nước vững mạnh (khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước), tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn lực bên ngoài (khu vực FDI), khi lợi thế trong nước không còn (chi phí lao động thấp, ưu đãi thuế hấp dẫn…), các doanh nghiệp FDI dịch chuyển sang các nước có lợi thế tốt hơn và chi phí sản xuất cạnh tranh hơn (hiện tượng này được các nhà kinh tế gọi là mô hình đàn sếu bay – flying geese) dẫn đến quá trình giải công nghiệp hoá (deindustrialization), để lại ngành công nghiệp gồm các doanh nghiệp trong nước không đủ năng lực cạnh tranh với các nền kinh tế đã phát triển về công nghệ, hay với các nền kinh tế có mức lương thấp hơn trong việc sản xuất hàng hóa giá rẻ.
Ngay từ khi mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Những năm gần đây, Việt Nam luôn dẫn đầu các nước ASEAN về thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã thu hút được gần 40.000 dự án, với tổng vốn đăng ký đạt trên 363,3 tỷ USD. Nếu tính theo tỉ lệ % GDP hay theo đầu người, vốn FDI vào Việt Nam đã vượt Trung Quốc, Ấn Độ và phần lớn các nước trong khu vực ASEAN. Trong số các dự án FDI tại Việt Nam, có nhiều dự án giá trị cao của các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, phần lớn FDI đầu tư vào Việt Nam tập trung vào các ngành thuộc nhóm khai thác thị trường như hoạt động kinh doanh bất động sản, hay các ngành chế biến chế tạo thâm dụng lao động, giá trị gia tăng thấp như dệt may, da giày, sản phẩm từ cao su, nhựa, thực phẩm đồ uống, nội thất và gỗ, giấy… Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2018) cho biết “nhiều nhà đầu tư thường cho rằng chi phí nhân công và năng lượng thấp cũng như chính sách ưu đãi thuế hấp dẫn là những lý do chính để đầu tư vào Việt Nam, trong khi đó rất ít doanh nghiệp FDI cho rằng tay nghề lao động cao hay chuỗi cung ứng trong nước có đủ năng lực cạnh tranh là thế mạnh của Việt Nam”. Báo cáo cũng chỉ ra rằng để tránh bẫy thu nhập trung bình hay bẫy giá trị gia tăng thấp để trở thành nước có thu nhập cao, Việt Nam cần có một chiến lược thu hút đầu tư FDI thế hệ mới, gắn với các chiến lược và quy hoạch phát triển của quốc gia, hình thành các chuỗi cung ứng và cụm liên kết ngành công nghiệp, tập trung vào các ngành, công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ thân thiện môi trường và tiêu hao ít năng lượng, thu hút các dự án, các nhà đầu tư phát triển bền vững theo hướng chú trọng chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và tăng cường kết nối với doanh nghiệp trong nước.
Để khu vực FDI có thể đóng góp, hỗ trợ nhiều hơn cho nền kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất và giá trị tạo ra trong nước, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận về thu hút FDI, dựa vào các lợi thế cạnh tranh động (tay nghề người lao động, năng lực sáng tạo, và môi trường tự nhiên và kinh doanh, đầu tư thuận lợi), thay vì các lợi thế cạnh tranh tĩnh, kém bền vững như trước đây (tài nguyên, lao động phổ thông, cơ chế ưu đãi dễ dàng và hấp dẫn).
Nói một cách cụ thể, Việt Nam cần tập trung thu hút FDI vào những nhà đầu tư nước ngoài có thể (i) Tạo ra mức lương cao hơn (đầu ra/nhân công có giá trị cao hơn); (ii) Thúc đẩy phát triển kỹ năng, chuyển giao công nghệ, R&D trong nước; (iv) Khuyến khích sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn (không chỉ năng lượng, mà cả đất đai, nguồn nước, nguyên liệu thô, v.v); (v) Tạo cơ hội để doanh nghiệp và nhà đầu tư trong nước hợp tác với các doanh nghiệp quốc tế trong các chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi không chèn lấn nhà đầu tư và DNVVN trong nước; và (v) Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, trong nước cũng như nước ngoài (bằng cách cải thiện chuỗi cung ứng, logistics, v.v).
Từ những phân tích trên, Cục Công nghiệp cho rằng con đường đi lên từ nước thu nhập trung bình thành nước thu nhập cao không thể bỏ qua công nghiệp chế biến chế tạo, và trên con đường đó doanh nghiệp công nghiệp trong nước chính là yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững và thoát bẫy thu nhập trung bình, bẫy giá trị gia tăng thấp. FDI trong công nghiệp chế biến chế tạo là động lực dẫn dắt, nhưng doanh nghiệp công nghiệp trong nước mới là nền tảng vững chắc để giúp một quốc gia thoát bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, thu hút FDI phải có chiến lược và có chọn lọc, tránh tiếp nhận FDI công nghệ thấp, vào cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp công nghiệp trong nước để tránh bẫy giá trị gia tăng thấp; hình thành và phát triển lực lượng doanh nghiệp công nghiệp trong nước vững mạnh, gắn kết chặt chẽ với khu vực FDI và dần dần gây dựng được lực lượng doanh nghiệp trong nước vững mạnh, có được doanh nghiệp trong nước quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt và hình thành chuỗi cung ứng trong nước.
Kinh nghiệm từ Hàn Quốc, Malaysia và các nước đi trước cho thấy có nhiều con đường khác nhau để đưa đất nước từ nước thu nhập trung bình thành nước có thu nhập cao, và con đường đó dài hay ngắn phụ thuộc vào cách quốc gia đó xác định mục tiêu đúng cho từng giai đoạn trung hạn, và tập trung nguồn lực, chính sách để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Hàn Quốc rút ngắn được quãng đường đi lên nước thu nhập cao bởi họ xác định được mục tiêu công nghiệp hoá rõ ràng, xuyên suốt qua bảy kỳ kế hoạch 5 năm, và mọi chính sách, nguồn lực xã hội được huy động, sử dụng để đạt được mục tiêu đó. Chính sách phát triển công nghiệp cần được đặt trong bối cảnh rộng hơn, gồm cả các chính sách tác động trực tiếp đến doanh nghiệp công nghiệp và các chính sách gián tiếp nhưng lại có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp nói chung, và các doanh nghiệp công nghiệp nói riêng. Để xác định được mục tiêu đúng, cần có cơ chế phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp để có sự đồng thuận giữa các cơ quan chính phủ và giữa nhà nước với khu vực tư nhân. Do vậy, cần hình thành và duy trì cơ chế đối thoại chính sách với các doanh nghiệp công nghiệp, theo dõi, giám sát và đo lường, đánh giá sự cải thiện chất lượng chính sách và năng lực cạnh tranh công nghiệp Việt Nam so với các nước trong khu vực và một số nước so sánh trên toàn cầu.
Để thu hút được đầu tư FDI giá trị cao, cần giải quyết một số thách thức và rào cản về cơ chế, chính sách trong toàn bộ chu kỳ đầu tư của doanh nghiệp và thay đổi cách tiếp cận về FDI như hiện nay. Thứ nhất, cần hướng đến các nhà đầu tư có động lực phát triển dựa vào lao động kỹ năng tay nghề cao, công nghệ sử dụng nguồn lực tiết kiệm thay vì dựa vào chi phí nhân công thấp, dịch vụ hạ tầng chi phí thấp, phân tán rủi ro ngoài Trung Quốc; cần có tiêu chí sàng lọc, lựa chọn nhà đầu tư thống nhất từ trung ương đến địa phương để đảm bảo thu hút đầu tư theo đúng nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động kết nối doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, xây dựng năng lực giúp doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI (gia hạn thời gian thực hiên Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ). Thứ hai, xúc tiến đầu tư cần chủ động, có mục tiêu, để thu hút được những nhà đầu tư mà nền kinh tế mong muốn, thay vì thụ động, mở cửa thị trường chờ nhà đầu tư tới. Thứ ba, công cụ marketing đầu tư cần tiếp cận theo ngành, theo chuỗi giá trị để thu hút được nhà đầu tư dựa trên lợi thế cạnh tranh dài hạn, thay vì công cụ marketing truyền thống dựa vào ưu đãi cao để thu hút nhà đầu tự dựa trên lợi thế chi phí ngắn hạn; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài hiện có thay vì tổ chức các sự kiện xúc tiến đầu tư kém hiệu quả, bởi các nhà đầu tư hiện tại chính là những “đại sứ”, là kênh quảng bá về chính sách, môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam một cách khách quan, hiệu quả nhất. Thứ tư, ưu đãi cho nhà đầu tư nên dựa trên hiệu quả, giá trị gia tăng tạo ra trong nước, kết quả hoạt động sau đầu tư thay vì ưu đãi dựa trên lượng vốn đăng ký và quy mô.