Ba lợi thế
Công nghiệp hỗ trợ là nền tảng cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, là động lực then chốt thúc đẩy nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam.
Chia sẻ tại Tọa đàm “Thu hút đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ: Đòn bẩy từ chính sách” do Tạp chí Công Thương thực hiện, ông Hồ Ngọc Toàn - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thiết bị và giải pháp cơ khí Automech đánh giá, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước hiện có ba lợi thế.
Thứ nhất, tính linh hoạt của các doanh nghiệp về sản phẩm rất cao, có nghĩa là đang làm sản phẩm A hoàn toàn có thể ngay lập tức chuyển sang làm sản phẩm B, tức là khả năng linh hoạt trong quy trình sản xuất rất nhạy bén, chuyển đổi rất nhanh.
Thứ hai, doanh nghiệp có đội ngũ kỹ thuật, kỹ sư chuyên môn. Thế hệ kỹ sư bây giờ trong lĩnh vực cơ khí rất trẻ và dồi dào, việc tiếp cận và học hỏi thêm các công nghệ mới rất nhanh, cho nên là khả năng tiếp cận về sản phẩm mới, về công nghệ mới, về quy trình sản xuất mới là các bạn tiếp cận rất tốt.
Thứ ba, hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi. Có nhiều tập đoàn sản xuất về công nghiệp nặng - như ô tô chẳng hạn - đang đầu tư nhiều ở thị trường Việt Nam, hay là các ngành hàng về tiêu dùng, về các sản phẩm cơ khí tiêu dùng, ví dụ như các sản phẩm đồ điện tử, giáo dục chẳng hạn, cũng đang phát triển rất tốt ở thị trường Việt Nam và cũng đã có những tập đoàn lớn đầu tư vào, sản xuất các sản phẩm chất lượng cung cấp ra thị trường.
Bốn hạn chế
Tuy nhiên, ông Hồ Ngọc Toàn cũng cho rằng, bên cạnh các lợi thế, doanh nghiệp Việt còn tồn tại 4 hạn chế chính: về quy mô của các doanh nghiệp; về nguồn vốn; về các tiêu chuẩn chứng chỉ theo tiêu chuẩn quốc tế; về công nghệ - tức là về máy móc, thiết bị gia công. Đi sâu vào bốn điểm đấy thì mình có thể phân tích chi tiết hơn.
Thứ nhất là liên quan đến quy mô. Có thể thấy là hầu hết các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ tại thị trường Việt Nam thì quy mô diện tích chỉ rơi vào khoảng tầm từ 2.000 - 3.000 m2 là lớn chứ rất ít các doanh nghiệp mà có quy mô lớn vài chục hecta giống như là các nhà máy FDI đầu tư ở Việt Nam làm về mảng công nghiệp hỗ trợ. Quy mô nhỏ như vậy thì khi đang làm sản phẩm này mà muốn phát triển thêm sản phẩm khác nữa thì sẽ phải đầu tư thêm ở khu vực khác vì diện tích nhỏ đó không thể mở rộng được nữa, thì hoạt động sản xuất lại phải xé lẻ ra nhiều khu vực, nhà máy, việc quản lý sẽ khó khăn.
Thứ hai là về nguồn vốn. Để đầu tư một nhà máy mới khoảng 2ha, chi phí mặt bằng đất đai tại khu công nghiệp khoảng 100 tỷ đồng, chi phí xây dựng hạ tầng nhà xưởng, văn phòng thêm 100 tỷ đồng nữa, là khoảng 200 tỷ đồng.
Khi đó, gần như lực của doanh nghiệp đã yếu, việc đầu tư về công nghệ, về máy móc thiết bị sẽ bị dàn trải ra thêm nhiều năm nữa, khiến năng lực công nghệ của doanh nghiệp đi sau nhiều năm so với thực tế.
“Hay là cũng có những doanh nghiệp tôi thấy họ đầu tư nhà xưởng xong, lại cố tiếp tục đầu tư công nghệ nữa, và đến một giai đoạn mà ảnh hưởng bởi biến động thị trường thì họ không gánh được tiền lãi, lãi suất ngân hàng quá lớn, ví dụ như 300 tỷ đồng, với nhân công cho nhà máy đấy khoảng tầm 400-500 nhân sự, thì chi phí sản xuất, chi phí nhân công hàng tháng rơi vào khoảng 20 tỷ đồng rồi, bao gồm cả nhân sự, lãi ngân hàng và rất nhiều thứ chi phí. Vậy thì doanh nghiệp không thể gồng gánh được. Đấy là vấn đề bất cập về nguồn vốn”, ông Toàn chia sẻ.
Thứ ba là liên quan đến các tiêu chuẩn chứng chỉ. Trong ngành ô tô có một tiêu chuẩn nếu muốn làm được linh kiện xuất khẩu là tiêu chuẩn IATF 16949, nhưng cách đây khoảng 5 năm các doanh nghiệp Việt Nam gần như không biết đến. Dù đến nay cũng đã có một số doanh nghiệp đáp ứng được, nhưng thời gian để tiếp cận và đáp ứng rất dài, khiến doanh nghiệp chậm chân hơn so với thị trường và tuột mất cơ hội giành được đơn hàng.
Thứ tư nữa là về công nghệ. Sử dụng máy móc, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu khiến sản phẩm làm ra chỉ có thể phục vụ thị trường trong nước, không thể xuất khẩu hay vào chuỗi của các công ty đa quốc gia. Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã có sự chuyển biến, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và ứng dụng mạnh mẽ trong sản xuất kinh doanh, nhưng chưa nhiều, tập trung ở các doanh nghiệp có tiềm lực và quy mô lớn trên thị trường.
Thiếu ngành thiết kế công nghiệp
Phó Tổng giám đốc Automech cho biết thêm, một điểm nghẽn khác khiến ngành công nghiệp hỗ trợ chưa "cất cánh" là ngành thiết kế công nghiệp ở Việt Nam chưa nhiều người để ý đến nhưng lại hết sức quan trọng trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ.
"Lấy ví dụ như là mình sản xuất ra một tivi thì mình cần phải thiết kế ra tivi đó, thì hầu hết là bây giờ mình đang gia công thôi, chứ còn thiết kế ra tivi là mình chưa làm được. Nếu mà mình thiết kế ra một tivi ấy thì mình sẽ đưa vật liệu vào theo tiêu chuẩn của mình, đã sản xuất ở nội địa rồi thì vật liệu sẽ rất rẻ đi và cạnh tranh được, chủ động về nguyên liệu hơn, không phụ thuộc vào biến động thị trường quốc tế. Ví dụ như là rất là nhiều hãng xe họ đặt vấn đề với Automech là bây giờ cụm linh kiện đấy ông phải thiết kế đi, không phải là mình vẽ ra sao cho lắp vào xe được, mà mình cần phải có quy trình thiết kế, chống va đập này, chịu lực được này, rồi thuận tiện cho người sử dụng này… giống như tivi phải là đủ kích thước hay phải đủ độ mỏng chẳng hạn. Thế thì cần phải có khâu thiết kế đó nhưng thực tế là khi mà triển khai phải tìm nguồn nhân lực ở thị trường Việt Nam thì rất là khó. Mình gần như chưa để ý đến ngành công nghiệp thiết kế đấy", ông Hồ Ngọc Toàn phân tích.

Chính sách quyết liệt tháo gỡ điểm nghẽn
Nắm bắt thực trạng này, nhiều chính sách đã và đang được ban hành để hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ những điểm nghẽn.
Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Phạm Văn Quân cho biết, Bộ Công Thương đang tích cực xây dựng và trình ban hành các chính sách cụ thể để doanh nghiệp tham gia lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, công nghiệp hỗ trợ có thể vay những nguồn vốn từ ngân hàng chính sách giảm 3% so với vay thương mại. Bộ cũng đang xây dựng đề xuất thành lập quỹ phát triển công nghiệp chiến lược, công nghiệp nền tảng tương đường khoảng gần 1% GDP, với cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn nhanh hơn.
Đặc biệt, ngày 14/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định quan trọng của Nghị định 111/2015/NĐ-CP với nhiều điểm đổi mới, mang tính đột phá. Trong đó, mức hỗ trợ tài chính cho nhiều hoạt động tăng lên tới 70% chi phí, như triển lãm, phát triển thị trường, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ.... Về chuyển giao công nghệ, quy định mới hỗ trợ lên tới 70% chi phí cho hoạt động nâng cao chất lượng chuyên gia tư vấn công nghiệp hỗ trợ. Hỗ trợ tối đa 50% chi phí thử nghiệm, chứng nhận chất lượng, đăng ký bản quyền, sở hữu trí tuệ cho sản phẩm.
Việc ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP là bước đi quan trọng, được cộng đồng doanh nghiệp, địa phương ủng hộ. Đây không chỉ là bản sửa đổi kỹ thuật mà là một bước nâng cấp toàn diện, phù hợp với bối cảnh phát triển mới, chú trọng vào tăng chất lượng hỗ trợ, minh bạch thủ tục hành chính, và thích ứng chuyển đổi số, hội nhập quốc tế.
Để chính sách thực sự phát huy vai trò hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, thời gian tới, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp.
Trong đó, Bộ Công Thương giữ vai trò nòng cốt trong hướng dẫn, triển khai và giám sát; và các Bộ, ngành, địa phương sẽ cần vào cuộc tích cực hơn nữa để cùng Bộ Công Thương tháo gỡ khó khăn về vốn, đất đai, thuế, công nghệ, nhân lực,…
Về phía doanh nghiệp, cần chủ động đổi mới tư duy quản trị, đầu tư công nghệ và tăng cường liên kết để tận dụng chính sách.
Khi đó, chính sách sẽ thực sự trở thành “đòn bẩy” giúp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam bứt phá, góp phần hình thành nền công nghiệp độc lập, tự chủ và có sức cạnh tranh trong khu vực.
