Những ngày đầu, Vàng Danh chỉ vẻn vẹn có 4 phân xưởng hầm lò 274, 314, 389 và Cơ điện với số công nhân không quá 600 người. Khi sản xuất thử, sản lượng than ra lò mới có vài trăm nghìn tấn/năm. Đến nay, Công ty Than Vàng Danh đã có tới 5 nghìn người, với trên 30 phân xưởng sản xuất và một nhà máy cơ điện. Sản lượng ra than được nâng dần lên 300, 400 rồi 550 nghìn tấn/năm. Trừ năm 1999, một năm không riêng Vàng Danh mà toàn ngành Than gặp khó khăn, còn lại từ năm 1997 đến nay, năm nào Vàng Danh cũng khai thác vượt công suất thiết kế. Đặc biệt, năm 2003, toàn Công ty đã sản xuất tới 1 triệu tấn than vào trung tuần tháng 12, vượt công suất 40 vạn tấn, nêu một kỷ lục ra than đầu tiên sau gần 40 năm thành lập mỏ. Quý đầu năm 2004 này, Vàng Danh đã cho ra lò trên 308 nghìn tấn than nguyên khai, nhiều hơn cùng kỳ trên 11 nghìn tấn. Đời sống công nhân lao động từng bước được nâng lên, thu nhập mỗi năm một tăng, các công trình phúc lợi được xây dựng. Từ công nghệ chống cột gỗ, đến nay đã có hàng chục lò chợ chống cột thủy lực, giảm cường độ lao động và giúp người thợ nâng cao năng suất. Vàng Danh là đơn vị thí điểm thành công công nghệ giàn chống mềm. Từ những túp lều ngày đầu, đêm đêm lợn rừng còn mò vào “đánh thức” người, bây giờ Công ty Than Vàng Danh đã có những lô nhà cao tầng, sân bóng đá, bóng chuyền và cầu lông, nhà truyền thống, thư viện, trung tâm y tế… phục vụ thợ mỏ và nhân dân trong vùng.
Năm 2002, Công ty trích quỹ phúc lợi và huy động người lao động đóng góp thêm xây dựng một Nhà Thể thao có quy mô lớn với giá trị 5,8 tỷ đồng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thợ mỏ Vàng Danh quyết tâm bám trụ, đứng vững trên trận tuyến vừa sản xuất vừa chiến đấu. Bom đạn kẻ thù ngày đêm dội xuống, nhưng thợ mỏ Vàng Danh vẫn ra than, vẫn đánh trả những “thần sấm”, “con ma”. Đã có những người con của Vàng Danh anh dũng hy sinh trên mâm pháo, trên cung đường vận chuyển gỗ về mỏ. Mỏ than Vàng Danh ra đời rồi trở thành Công ty đã tạo ra một thị trấn mỏ và bây giờ trở thành phường Vàng Danh đang đổi thay từng ngày, được xây dựng khang trang với trạm điện, trường học, đường giao thông, nhà văn hoá, phục vụ nhu cầu đời sống dân sinh của 1,2 vạn người. Vàng Danh không chỉ đổi thay trong sản xuất và xây dựng đời sống văn hoá mà Vàng Danh đang đổi thay sâu sắc trong nếp nghĩ của con người để thích nghi với cơ chế mới. Mặc dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, nhưng đội ngũ thợ mỏ Vàng Danh vẫn vững vàng trong sản xuất để luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Nhận biết đúng những gì đã làm được trong 40 năm, thợ mỏ Vàng Danh cũng nhận biết sâu sắc những gì còn đang là khó khăn, thử thách trước mắt để vươn lên xứng đáng danh hiệu cao quý Nhà nước phong tặng “Đơn vị Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới”./.